Toàn cảnh ngành ngân hàng 6 tháng 2024: Lợi nhuận tăng trưởng tích cực
Ngành ngân hàng ghi nhận lợi nhuận tăng trưởng khá tốt nửa đầu 2024. Kỳ vọng ngành sẽ tăng trưởng lợi nhuận 17-18% cho năm 2024-2025.
Các yếu tố chính thúc đẩy lợi nhuận
Tương tự như quý 1/2024, kết quả kinh doanh (KQKD) quý 2 và 6 tháng 2024 của 17 ngân hàng niêm yết cho thấy sự khác biệt giữa tăng trưởng lợi nhuận/ROE khá tốt và các chỉ số chất lượng tài sản suy giảm. Các ngân hàng quốc doanh ghi nhận lợi nhuận tăng trưởng tốt hơn trong quý 2/2024; Các ngân hàng tư nhân lớn (TCB, VPB, MBB, ACB, STB, HDB) cũng có mức tăng trưởng từ tốt đến mạnh; trong khi các ngân hàng nhỏ có sự phân hóa đáng kể (LPB, SSB, NAB – vượt trội so với VIB, OCB, MSB – kém hiệu quả).
Tổng lợi nhuận trước thuế (LNTT) của 17 ngân hàng tăng trưởng 21% n/n trong quý 2/2024, cao hơn so với dự báo 16% của chúng tôi, nhờ kết quả lạc quan từ BID, TCB, VPB, HDB, LPB & SSB đã bù đắp cho kết quả kém khả quan của CTG, VIB, OCB, MSB.
Các yếu tố chính thúc đẩy lợi nhuận gồm: Tăng trưởng tín dụng cao hơn trong quý 2 bù đắp cho biên lãi ròng (NIM) giảm nhẹ + Thu nhập từ giao dịch ngoại hối mạnh mẽ hỗ trợ tổng thu nhập hoạt động (TOI). Về mặt chi phí, chi phí hoạt động được kiểm soát ở hầu hết các ngân hàng (thông qua cắt giảm nhân sự và kiểm soát chi phí G&A), trong khi trích lập dự phòng nói chung được nới lỏng tại nhiều ngân hàng. Chỉ một số ít ngân hàng thực hiện trích lập dự phòng hợp lý/thận trọng, theo quan điểm của chúng tôi, bao gồm: VCB, BID, CTG, TCB, TPB.
Mức sinh lời, tức chỉ số ROE, duy trì tốt ở mức trung bình là 18,4% (quy đổi theo 6 tháng 2024) so với 18,9% trong 6 tháng 2023 và 17,4% trong năm 2023. Một nửa số ngân hàng niêm yết duy trì ROE mạnh mẽ trên 18,5%. TCB, HDB, LBP, SHB, TPB là những ngân hàng có ROE cải thiện nhiều nhất.
Các chỉ số chất lượng tài sản giảm vừa phải trong quý 2/2024, theo quan điểm của chúng tôi: i) tỷ lệ nợ xấu (NPL) bình quân không thay đổi so với quý trước, ở mức 1,97% nhưng tỷ lệ tái cơ cấu nợ tăng lên và ii) tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLCR) giảm thêm 25 điểm cơ bản xuống còn 83% (so với 85% trong quý 1/2024 và 94% trong quý 4/2023). Dựa trên thang điểm đánh giá của chúng tôi, chỉ có 5 ngân hàng duy trì vị thế chất lượng tài sản từ mức ổn đến tốt tính đến cuối quý 2/2024.
Các ngân hàng quốc doanh ghi nhận tăng trưởng tốt hơn trong quý 2/2024. Tuy nhiên, đối với 6 tháng 2024, các ngân hàng này có mức tăng trưởng lợi nhuận khiêm tốn do NIM giảm nhẹ và phí thấp hơn (do dẫn đầu trong việc cắt giảm lãi suất cho vay và phí để hỗ trợ doanh nghiệp trong nước theo chỉ đạo của Chính phủ). Ngoài ra, theo quan điểm của chúng tôi, CTG dường như đã quyết liệt quản lý lợi nhuận của mình bằng cách tăng dự phòng. Lưu ý rằng đây là năm đầu tiên tất cả các ngân hàng quốc doanh không đặt ra mục tiêu lợi nhuận cụ thể. Tất cả đều được thông báo tại ĐHĐCĐ (tổ chức vào tháng 4) rằng tăng trưởng lợi nhuận sẽ phụ thuộc vào chỉ đạo và phê duyệt của NHNN.
Trong số các ngân hàng tư nhân, các ngân hàng lớn đã đạt được KQKD ổn định và mạnh mẽ hơn trong quý 2 và 6 tháng 2024, nhờ tăng trưởng tín dụng mạnh hơn cùng với NIM phục hồi tại một số ngân hàng như TCB, MBB, VPB, HDB,…
Trong khi đó, các ngân hàng nhỏ hơn có sự phân hóa rõ rệt. Theo quan điểm của chúng tôi, hầu hết trong số các ngân hàng này vẫn chưa trích lập dự phòng đủ cho các khoản nợ xấu và rủi ro tín dụng tiềm ẩn. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu của các ngân hàng này vào cuối quý 2/2024 khá mỏng.
Biên lãi ròng giảm
Biên lãi ròng (NIM) 6 tháng 2024 của các ngân hàng niêm yết giảm (18 điểm cơ bản so với 6 tháng 2023 và 7 điểm cơ bản 2023) xuống còn trung bình 3,87%.
So với 6 tháng 2023, 9 ngân hàng đã ghi nhận giảm NIM trong 6 tháng 2024 do lợi suất cho vay giảm nhanh hơn, nguyên nhân là do lãi suất cho vay chung giảm và tỷ lệ cho vay bán lẻ thấp hơn. Trong khi đó, 7 ngân hàng (TCB, CTG, VPB, HDB, TPB, LPB,...) ghi nhận NIM cải thiện so với cùng kỳ nhờ vào chi phí huy động vốn giảm nhanh hơn.
Từ kế hoạch gần đây của ban lãnh đạo các ngân hàng niêm yết, chúng tôi dự kiến NIM toàn ngành sẽ tiếp tục chịu áp lực trong nửa cuối năm 2024 do lợi suất cho vay có thể ổn định (do cạnh tranh cao để thu hút khách vay) trong khi lãi suất tiền gửi tăng lên.
Các ngân hàng hiện tại có lợi suất cho vay thấp + lợi thế về chi phí + dư địa để tăng cho vay bán lẻ nhanh hơn sẽ có khả năng bảo vệ NIM của mình và có nhiều cơ hội tốt hơn trong việc cải thiện NIM trong giai đoạn 2025-2026. Từ góc nhìn về triển vọng NIM, chúng tôi ưa thích TCB và VCB nhất trong số các ngân hàng niêm yết.
Chúng tôi nhận thấy TCB và VCB có khả năng duy trì NIM tốt nhất, nhờ khả năng cạnh tranh về chi phí huy động vốn và lợi suất cho vay lành mạnh. Lưu ý rằng NIM của TCB có khả năng hồi phục hơn nữa khi thu lãi từ các khoản vay theo cơ chế định giá linh hoạt (chủ yếu là trong năm 2025).
Dựa trên đà tăng trưởng trong 6 tháng 2024, chúng tôi đã điều chỉnh giảm dự báo, ước tính NIM bình quân của các ngân hàng niêm yết sẽ giảm khoảng 24 điểm cơ bản xuống còn khoảng 3,7% trong năm 2024 theo kịch bản cơ sở, và có thể sẽ phục hồi nhẹ khoảng 10 điểm cơ bản trong kịch bản tích cực (với tăng trưởng tín dụng mạnh hơn dự kiến được thúc đẩy bởi cho vay bán lẻ từ quý 3/2024).
Tăng trưởng và phân hóa với thu nhập ngoài lãi
Thu nhập ngoài lãi (Non-NII) có mức tăng trưởng vừa phải tại hầu hết các ngân hàng niêm yết trong 6 tháng 2024, tăng 6% n/n. Các ngân hàng có Non-NII tăng trưởng mạnh nhất là: BID (+28% n/n), TCB (+33% n/n), MBB (+73% n/n), VIB (+50% n/n), LPB (+177% n/n), SSB (+39% n/n).
Thu nhập từ phí và giao dịch chứng khoán có sự phân hóa đáng kể, trong khi thu nhập từ giao dịch ngoại hối mạnh mẽ tại hầu hết các ngân hàng nhờ môi trường tỷ giá thuận lợi trong 6 tháng 2024 (tức là nhu cầu tốt và biến động hợp lý).
Kinh doanh bảo hiểm (Bancassurance) vẫn tăng trưởng chậm trong 6 tháng 2024 do toàn ngành bảo hiểm gặp khó khăn từ cả sự mất niềm tin và thu nhập từ người tiêu dùng. Chỉ có TCB và VPB ghi nhận bancassurance tăng trưởng dương trong nửa đầu năm.
TCB vẫn là ngân hàng dẫn đầu ngành về tỷ lệ phí/tổng tài sản, gần 1,1% (cũng là động lực quan trọng thúc đẩy ROA hàng đầu ngành của TCB), nhờ vào thu nhập từ phí mạnh mẽ và đa dạng.
Hầu hết các ngân hàng đều thực hiện kiểm soát chi phí hoạt động (Opex) chặt chẽ thông qua cắt giảm nhân sự, kiểm soát chi phí G&A,... Opex của các ngân hàng niêm yết chỉ tăng 6,5% n/n trong 6 tháng 2024.
Tỷ lệ chi phí/thu nhập (CIR) được duy trì ở mức rất lành mạnh đối với hầu hết các ngân hàng niêm yết, và một số ngân hàng thậm chí gần với mức chuẩn toàn cầu (khoảng 22-26%). Chúng tôi cho rằng điều này là nhờ sự kết hợp giữa tăng trưởng thu nhập hoạt động tốt, chi phí nhân sự hợp lý tại Việt Nam hiện nay và chưa đầu tư toàn diện vào công nghệ (ngoại trừ TCB).
Theo quan điểm của chúng tôi, các ngân hàng dẫn đầu quá trình chuyển đổi số tại Việt Nam là TCB, VIB (bắt đầu chuyển sang điện toán đám mây), MBB, TPB và VPB.
Nới lỏng trích lập dự phòng, nợ xấu ổn định
Trích lập dự phòng được nới lỏng tại nhiều ngân hàng để quản lý tăng trưởng lợi nhuận.
Tổng chi phí dự phòng của 17 ngân hàng niêm yết chỉ tăng 11% n/n trong 6 tháng 2024, tương đương với tỷ lệ trích lập dự phòng là 1,27%, điều này dường như không tương xứng với mức tăng 22% YTD của các khoản nợ xấu tuyệt đối.
Chúng tôi nhận thấy rằng nhiều ngân hàng đã quyết định nới lỏng trích lập dự phòng và sử dụng dự phòng tổn thất cho vay (mà các ngân hàng đã tích lũy trong những năm trước) để quản lý tăng trưởng lợi nhuận của mình. Do đó, tỷ lệ bao phủ nợ nấu (LLCR) đã giảm xuống còn trung bình 83% đối với 17 ngân hàng niêm yết (so với 94% vào cuối năm 2023).
Bên cạnh đó, chỉ có 5 ngân hàng duy trì được LLCR tốt (trên 100%) vào cuối quý 2/2024, bao gồm: VCB, BID, CTG, TCB và MBB. Trong khi đó, ACB (từng có mức LLCR tốt nhất trong số các ngân hàng trong nước) đã giảm đáng kể (xuống mức thấp nhất trong lịch sử của riêng mình kể từ quý 2/2015).
Dựa trên tỷ lệ trích lập dự phòng và tình trạng LLCR của các ngân hàng, chúng tôi cho rằng chỉ có một số ít ngân hàng (VCB, BID, CTG, TCB và TPB) đã thực hiện trích lập dự phòng hợp lý trong 6 tháng 2024. Đặc biệt, VCB, BID và CTG có khả năng giảm trích lập dự phòng vì tỷ lệ NPL của các ngân hàng này vẫn thấp và LLCR vẫn rất tốt. TPB cũng thực hiện trích lập dự phòng hợp lý (mặc dù LLCR vẫn còn khá khiêm tốn).
Theo quan điểm của chúng tôi, TCB đã thực hiện dự trích lập phòng thận trọng nhất, vì ngân hàng duy trì tỷ lệ trích lập dự phòng ở mức hợp lý (1%) và do đó duy trì LLCR tốt ở mức trên 100%.
Tỷ lệ nợ xấu dường như ổn định trong quý 2/2024 một phần nhờ vào tăng trưởng tín dụng tốt.
Tổng các khoản nợ xấu của 17 ngân hàng niêm yết tăng 6% q/q trong quý 2/2024, đạt 199 nghìn tỷ đồng/7,8 tỷ USD (+22% YTD), tương ứng với tỷ lệ NPL là 1,97% (không đổi so với quý 1/2024, nhưng tăng 20 điểm cơ bản so với mức 1,75% trong cuối năm 2023). Các khoản nợ quá hạn từ doanh nghiệp vừa và nhỏ (trong ngành thương mại, thép,…) và bán lẻ (thế chấp, tài chính tiêu dùng) đã đóng góp vào việc tăng các khoản nợ xấu.
So với các cuộc thảo luận/tin đồn trước đây về rủi ro nợ xấu tiềm ẩn (bắt đầu từ năm 2021), vị thế nợ xấu hiện tại của các ngân hàng Việt Nam dường như thấp hơn đáng kể so với những lo ngại đó. Ngoài ra, so với các ngân hàng trong khu vực (ở Thái Lan, Indonesia), các tỷ lệ nợ xấu này không quá cao. Theo quan điểm của chúng tôi, thực tế 11 ngân hàng vẫn có tỷ lệ nợ xấu ở mức chấp nhận được.
Mặc dù tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng niêm yết đã ổn định một chút trong quý 2/2024, nhưng triển vọng (để cải thiện) dường như vẫn còn khá mơ hồ ở thời điểm hiện tại, vì điều này phụ thuộc vào sự phục hồi của doanh nghiệp vừa và nhỏ và ngành bán lẻ.
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận