Áp lực lạm phát 2021-2022 và khuyến nghị
Đà phục hồi của sức cầu, xu hướng tăng giá hàng hóa thế giới, độ trễ của chính sách tiền tệ-tài khóa mở rộng và sự bùng nổ của thị trường chứng khoán là những vấn đề cần được nhìn nhận một cách tổng thể, đa chiều trong mối liên hệ với lạm phát...
Mặc dù chỉ số giá tiêu dùng CPI 10 tháng/2021 ở mức thấp nhất trong vòng 6 năm song xu hướng tăng khá mạnh của lạm phát toàn cầu (dự báo ở mức 3,2% năm 2021 và 3,3% năm 2022 so với mức 2% năm 2020) đã và đang đặt ra nhiều băn khoăn về áp lực lạm phát đối với Việt Nam trong thời gian còn lại của năm 2021 và năm 2022.
BỨC TRANH LẠM PHÁT NĂM 2021
Giá cả hàng hóa và lạm phát toàn cầu đã và đang “nóng lên”. Theo WB, tính đến hết tháng 10/2021, nhiều nhóm hàng hóa tăng mạnh so với đầu năm, giá năng lượng tăng 56,1%, giá nông nghiệp tăng 6,46%, giá phân bón tăng rất mạnh 79,8%, giá kim loại cơ bản và khoáng chất tăng 14,6%, trong khi kim loại quý giảm 5,6%...
Lạm phát tăng dần theo tháng (đặc biệt là quý 3/2021) và thậm chí ở mức kỷ lục trong nhiều năm ở nhiều quốc gia, chủ yếu do tác động của sức cầu bật tăng nhanh, đứt gãy chuỗi cung ứng làm tăng “cú sốc” khan hiếm hàng hóa và chi phí vận tải – kho bãi (logistics).
Lạm phát của Mỹ tháng 10/2021 tăng 6,2% so với cùng kỳ, vượt xa so với mức mục tiêu bình quân 2% và là kỷ lục trong vòng 31 năm; lạm phát Châu Âu ở mức cao 4,1% so với cùng kỳ, cao nhất trong vòng 13 năm; chỉ số giá sản xuất (PPI) của Trung Quốc tháng 10 cũng ở mức cao nhất trong vòng 26 năm, nguy cơ “xuất khẩu lạm phát” ra toàn thế giới...).
Ở chiều ngược lại, giá cả hàng hóa Việt Nam có dấu hiệu tăng chậm so với thế giới. Tính chung trong 10 tháng đầu năm 2021, chỉ số CPI chỉ có tháng 2 tăng mạnh (1,52%) còn lại 9 tháng chỉ tăng hoặc giảm nhẹ trong khoảng -0,2% đến 0,6%, CPI bình quân 10 tháng chỉ tăng 1,81% so với cùng kỳ năm 2020 và cả năm 2021 dự báo ở mức 2,1-2,3%, là mức thấp nhất trong vòng 6 năm.
Theo chúng tôi, có 4 nguyên nhân chủ yếu khiến giá cả trong nước tăng chậm so với thế giới.
Ở góc độ khác, giá cả tăng cho thấy sự hồi phục của kinh tế thế giới. Tuy nhiên, nếu áp lực chi phí đẩy cộng hưởng với áp lực lạm phát cầu kéo theo đà phục hồi có thể khiến bài toán lạm phát trở nên phức tạp hơn trong 1-2 năm tới như phân tích dưới đây.
DƯ ĐỊA KIỂM SOÁT LẠM PHÁT NĂM 2022
Với CPI tăng thấp trong bối cảnh tăng trưởng GDP năm 2021 dự báo cũng ở mức thấp (khoảng 2%), Việt Nam tránh được nguy cơ “lạm phát đình đốn” (stagflation).
Năm 2022, hầu hết các tổ chức quốc tế (IMF, WB, ADB, Citibank…) đều dự báo lạm phát Việt Nam sẽ tăng cao hơn năm 2021, lên đến 3,5-3,9% năm 2022.
Theo dự báo của chúng tôi, lạm phát năm 2022 sẽ ở mức 3,4-3,7%, dù thấp hơn so với mục tiêu dưới 4% song là mức tăng mạnh so với năm 2021 và so với trung bình toàn cầu và các nước ASEAN.
Nguy cơ rủi ro lạm phát đối với Việt Nam đang hiện hữu và còn chịu áp lực tăng trong bối cảnh giá cả thế giới chưa sớm hạ nhiệt, lạm phát toàn cầu còn ở mức cao (3,3%) trong năm 2022 trước khi hạ nhiệt từ giữa năm 2022 và những năm tiếp theo.
Ở trong nước, nhiều áp lực khiến lạm phát gia tăng như CPI toàn cầu dự báo ở mức 3,3% năm 2022 cao hơn năm 2021 (3,2%), các thị trường mới nổi thậm chí ở mức 4,1% so với mức 3,8% năm 2021. Tâm lý lo ngại “nhập khẩu lạm phát” có thể đẩy kỳ vọng lạm phát tăng, nhất là trong điều kiện Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào đầu vào nhập khẩu.
Bên cạnh đó, đà hồi phục kinh tế - xã hội và sự sôi động của các hoạt động sản xuất – kinh doanh, tiêu dùng. Áp lực lạm phát cầu kéo tăng lên khi đà phục hồi kinh tế, kéo theo nhu cầu đầu tư, tiêu dùng tăng, thậm chí còn có hiện tượng “chi tiêu bù” (bù đắp những lúc giãn cách xã hội không được giải trí, chi tiêu trước đó).
Ngoài ra, tăng trưởng mạnh của thị trường tài sản như chứng khoán, bất động sản, tiền kỹ thuật số...có thể lan tỏa đà tăng giá sang thị trường hàng hóa bởi kỳ vọng chi tiêu, tiêu dùng nhiều hơn khi thu nhập tăng.
Cùng với đó, lạm phát chi phí đẩy cũng chịu áp lực tăng lên trong năm 2022 ngay cả khi phục hồi còn chậm, bởi lẽ nhà cung cấp, bên bán hàng có thể sẽ bắt đầu tăng giá hàng – hóa, dịch vụ nhằm bù đắp phần tăng chi phí đầu vào đã và đang diễn ra.
Không những vậy, độ trễ tác động của chính sách tiền tệ-tài khóa nới lỏng giai đoạn 2020-2021 sẽ rõ nét hơn, khả năng điều chỉnh các mặt hàng do Nhà nước quản lý (như giá điện, nước, y tế, giáo dục…) có thể xảy ra, tạo áp lực tăng lạm phát đáng kể đối với Việt Nam. Việc triển khai mạnh Chương trình hỗ trợ phục hồi kinh tế giai đoạn 2022-2023 cũng sẽ là một tác nhân tăng cung tiền và gia tăng lạm phát 2 năm đó và có thể cả năm tiếp theo.
Thậm chí, rủi ro lạm phát nếu tình hình dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp, một số khu vực, tỉnh thành phố phải áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội ở cấp độ cao khiến sản xuất, lưu thông hàng hóa gián đoạn, tình trạng thiếu hụt cục bộ. Tuy nhiên, tình trạng này ít khả năng xảy ra và sẽ sớm được khắc phục theo tinh thần chung của Chiến lược phòng, chống dịch giai đoạn tới. Mặc dù vậy, tình trạng khan hiếm, mất cân đối cung cầu lao động khiến một số doanh nghiệp phải tăng lương, tăng phúc lợi cho nhân viên, cũng sẽ là một tác nhân khác của lạm phát.
Áp lực lạm phát tiềm ẩn trong dài hạn nếu các chỉ tiêu về chất lượng, hiệu quả tăng trưởng như năng suất lao động, hiệu suất đầu tư công, cơ cấu lại nền kinh tế chậm cải thiện. Nguồn lực không được sử dụng hiệu quả, tăng trưởng dưới tiềm năng, trong khi cung tiền không giảm hoặc gia tăng, cũng sẽ là những yếu tố tác động lên lạm phát trung – dài hạn.
Mặc dù vậy, Việt Nam còn ở vị thế chủ động và có dư địa để kiểm soát, ổn định giá cả và tâm lý người dân, trong đó 4 yếu tố chính hỗ trợ kiểm soát lạm phát như sau.
Cùng với đó, vấn đề khủng hoảng năng lượng tại các nước cung ứng năng lượng, nguyên liệu hàng đầu thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nga, OPEC…đã và đang được chú trọng khắc phục một cách tích cực (thông qua đa dạng hóa nguồn cung, đối tác, tăng sản lượng).
5 KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
Để dư địa kiểm soát lạm phát trong mục tiêu có thể được hiện thực hóa, nhóm nghiên cứu có 5 khuyến nghị sau.
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận