Những lý do không nới trần tăng trưởng tín dụng (14%)
Một trong những lý do không nới trần tăng trưởng tín dụng (14%) được NHNN đưa ra là tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam hiện rất cao (124%). Thông tin này không có gì là mới. Trong hơn chục năm qua, trong các đánh giá về chính sách tiền tệ tôi luôn đưa ra cảnh báo về tỷ lệ cung tiền/GDP và tín dụng/GDP rất cao của Việt Nam. Những tỷ lệ này nếu không có hai lần điều chỉnh quy mô GDP thì đã vượt 200% chứ không phải "lạc quan" như con số hiện tại.
Tỷ lệ cung tiền/GDP và tín dụng/GDP là nguyên nhân tiềm ẩn gây lạm phát giá tiêu dùng cũng như giá tài sản ở Việt Nam bất cứ khi nào. Đây cũng là lý do mà trước đây tôi cho rằng "dư địa" chính sách tiền tệ ở Việt Nam là khá hạn hẹp, ngay cả trong thời kì Covid khi lãi suất và lạm phát ở mức thấp.
Tôi cũng đồng ý rằng tăng trưởng tín dụng 14% là mức khá cao, tuy nhiên lại không đồng ý với cách can thiệp hành chính trực tiếp như hiện tại, đặc biệt là việc áp trần đối với từng ngân hàng riêng lẻ. Bên cạnh việc mang nặng tính xin - cho và thiếu minh bạch trong quy tắc phân bổ, việc áp trần đối với từng ngân hàng rõ ràng làm triệt tiêu động lực cạnh tranh trong ngành, cản trở sự phát triển tài chính.
Một trong nhiều lý do mà NHNN muốn duy trì chính sách này có lẽ là do họ không thể kiểm soát được cung tiền nếu bỏ việc áp trần trực tiếp. Trong 10 năm gần đây, tốc độ tăng cung tiền rộng (oad money) có xu hướng giảm dần rõ rệt, tuy nhiêu tốc độ tăng tiền cơ sở (money base) lại hầu như không đổi (15-16%/năm). Với tốc độ tăng trưởng tiền cơ sở như vậy, cộng với xu hướng bỏ thanh toán bằng tiền mặt thì cung tiền sẽ tăng rất mạnh nếu bỏ trần tín dụng.
Thông thường, tiền cơ sở là công cụ mà ngân hàng trung ương các nước có thể kiểm soát trực tiếp một cách chính xác. Tuy nhiên, ở Việt Nam, do theo đuổi chính sách neo tỷ giá, NHNN phải in ấn ra rất nhiều tiền để tích trữ ngoại hối (dự trữ ngoại hối tăng khoảng gần 10 lần trong 10 năm qua). Ngoài ra, việc "hỗ trợ" phát hành trái phiếu chính phủ cũng là một lý do quan trọng khác khiến NHNN khó kiểm soát lượng tiền cơ sở.
Như vậy, muốn bỏ trần tín dụng, ngoài việc nâng chuẩn an toàn của các tổ chức tín dụng (tỷ lệ an àn toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ cho vay/huy động, tỷ lệ huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn, tỷ lệ nợ xấu,...), thì việc lựa chọn chính sách tỷ giá và mức độ thâm hụt ngân sách của chính phủ sẽ quyết định rất nhiều đến khả năng kiểm soát cung tiền của NHNN.
Theo dõi người đăng bài
Tiếp cận các chuyên gia VIP/PRO hàng đầu của 24HMONEY
Nhận ngay bài viết tài chính chuyên sâu
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận