Vì sao doanh nghiệp ngành than không được lợi gì trong cơn sốt than toàn cầu?
Ngành than là ngành chịu tác động trực tiếp từ cơn sốt than. Tuy nhiên, chính sách giá than chịu sự quản lý chặt của Chính phủ, nên hầu hết ngành than chưa được hưởng lợi từ cơn sốt than hiện tại...
Nhu cầu than trong nước chủ yếu phục vụ cho nhiệt điện chiếm 72% nhu cầu trong nước nên trong báo cáo cập nhật triển vọng ngành than vừa công bố, SSI Research ước tính giá than năm nay dự kiến sẽ chỉ tăng nhẹ 4%.
GIÁ THAN CÓ THỂ GIẢM 10-15% TỪ ĐỈNH
Theo ghi nhận của Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA), nhu cầu than toàn cầu trong 9 tháng năm 2021 mặc dù chỉ tăng 4,5% so với cùng kỳ sau khi giảm 5% trong năm 2020, nhưng giá than trung bình thế giới đã tăng mạnh 110% so với cùng kỳ và 75% so với đầu năm, lập kỷ lục cao nhất trong lịch sử.
Ba nguyên nhân chính gây ra cơn sốt than toàn cầu. Thứ nhất, căng thẳng thương mại Trung Quốc – Úc và các lệnh hạn chế nhập khẩu than của Trung Quốc. Lệnh cấm nhập khẩu than Úc cũng khiến nhu cầu và giá than tại những đối tác còn lại của Trung Quốc như Indonesia, Nga, Mông Cổ cũng tăng đột biến, dẫn tới cơn sốt giá than trên diện rộng.
Thứ hai, nguồn cung than và các nguyên liệu đốt khác phục hồi chậm trong tình hình dịch bệnh phức tạp. Hoạt động khai thác cần sử dụng một lượng lớn lao động trong môi trường chật hẹp, dẫn tới việc nhiều nước như Úc, Ấn Độ, Indonesia, Nga phải tạm dừng khai thác ở các mỏ trong khoảng 2 – 3 tháng trong năm 2021 để giãn cách xã hội. Đồng thời, việc xuất khẩu than cũng trở nên khó khăn khi giá cước vận tải tăng vọt và thiếu nhân lực.
Các nhiên liệu đốt khác như khí đốt, dầu mỏ cũng gặp tình trạng gián đoạn tương tự, dẫn tới hiện tượng một số doanh nghiệp bắt đầu tích trữ quá mức than và các nhiên liệu đốt, khiến giá và nhu cầu bị thổi phồng quá mức.
Thứ ba, Trung Quốc tiếp tục thắt chặt kiểm soát ô nhiễm ở các ngành công nghiệp nặng. Reuters ước tính công suất than sang năm 2021 của Trung Quốc do đó đã giảm đi 1,4%, nước này chiếm tới ~50% thị phần sản xuất than thế giới, nên ảnh hưởng lớn tới nhu cầu và giá than tại những nước còn lại. Tuy nhiên, hiện tại chỉnh phủ Trung Quốc đã tạm dừng thắt chặt công suất để ưu tiên hạ nhiệt giá than trong nước.
Theo dự báo của IMF và IEA, nhu cầu than sẽ chững lại và chỉ tăng trưởng 2% trong năm 2022. Giá than cũng được dự báo sẽ chỉ tăng 7% so với mức trung bình 2021 và có thể giảm từ 10 – 15% so với mức đỉnh thiết lập năm 2021 khi các yếu tố gây sốt giá sớm được tháo gỡ, và nguồn cung than dự kiến tăng mạnh 7%.
Đồng thời, nhờ hầu hết các nước đẩy mạnh việc cấp phép mỏ than mới trong 2021, cũng như hoạt động logistic dần phục hồi, thị trường than thế giới sẽ sớm hạ nhiệt trong nửa đầu năm 2022.
DƯ ĐỊA TĂNG GIÁ THAN TRONG NƯỚC KHÔNG CÒN NHIỀU
Tại Việt Nam, giá than không đồng pha với giá than thế giới do chính sách quản lý giá ở Việt Nam với chỉ 2 đơn vị được phép khai thác và bán than trong nước là Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tổng Công ty Đông Bắc.
Giá than trong nước thường chỉ điều chỉnh khi có mức tăng lớn về chi phí sản xuất và thường chỉ diễn ra 3 - 4 năm/lần. Trong năm 2021, giá than trong nước chưa điều chỉnh nhiều, mới chỉ có giá than cho sản xuất xi măng điều chỉnh tăng 9% trong tháng 8, còn giá than cho nhiệt điện vẫn giữ nguyên để giảm áp lực cho EVN khi chính phủ đang yêu cầu hỗ trợ giá điện trong thời điểm dịch bệnh.
Và vì nhu cầu than trong nước chủ yếu phục vụ cho nhiệt điện chiếm 72% nhu cầu trong nước nên SSI Research ước tính giá than năm nay dự kiến sẽ chỉ tăng nhẹ 4%.
Về phía nhập khẩu, giá than nhập khẩu của Việt Nam tăng đồng pha với giá than thế giới, với mức tăng trung bình 83% trong 9 tháng đầu năm 2021. Với giá than tăng mạnh, các ngành công nghiệp sẽ bị ảnh hưởng chính bao gồm nhiệt điện, xi măng, luyện kim và phân bón.
Trong đó, vì giá than thế giới tăng đột biến so với than trong nước, các ngành có tỷ lệ than nhập trên tổng than sử dụng trong ngành cao như xi măng (66%), sắt thép (88%), phân bón (74%) sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất, còn nhiệt điện ít bị ảnh hưởng hơn do tỷ lệ than nhập mới chỉ chiếm 24% tổng than sử dụng và Chính phủ cũng ưu tiên nguồn than trong nước cho nhiệt điện.
Ngành than là ngành chịu tác động trực tiếp từ cơn sốt than. Tuy nhiên, chính sách giá than chịu sự quản lý chặt của Chính phủ, nên hầu hết ngành than chưa được hưởng lợi từ cơn sốt than hiện tại.
Tổng doanh thu của đơn vị sản xuất lớn nhất là TKV trong 9 tháng đạt 94,6 nghìn tỷ đồng tăng 2,1%, nhưng sản lượng than tiêu thụ chỉ đạt 29,6 triệu tấn giảm 1,3% do tình hình giãn cách xã hội kéo dài và huy động nhiệt điện giảm sút vì sản lượng điện tái tạo tăng mạnh.
Chi phí sản xuất than cũng tăng cao do giá than thế giới tăng cao trong khi hai đơn vị sản xuất trong nước là TKV và Đông Bắc đang phải nhập khẩu khoảng 20 - 25% lượng than từ Úc và Indonesia để trộn với than trong nước đáp ứng nhu cầu nội địa.
Đồng thời, chi phí nhiên liệu cũng tăng mạnh khiến việc khai thác than trở nên đắt đỏ hơn. Tổng doanh thu và lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp khai thác than niêm yết trong nửa đầu năm 2021 lần lượt đạt 10,6 nghìn tỷ đồng giảm 1,7% và 115 tỷ đồng giảm 8,2% và trong nửa cuối năm 2021, các doanh nghiệp than chưa có quá nhiều triển vọng về tăng giá bán hay đẩy mạnh sản lượng tiêu thụ.
Sang năm 2022, SSI Research cho rằng ngành than sẽ có nhiều dấu hiệu tích cực khi giá than trong nước dự kiến điều chỉnh từ 10 – 15% do chi phí sản xuất than của TKV và Đông Bắc đã tăng cao trong năm 2021 và nhu cầu từ nhiệt điện bắt đầu phục hồi trở lại khi giãn cách xã hội được nới lỏng. Các doanh nghiệp khai thác than đang niêm yết cũng sẽ bắt đầu được hưởng lợi khi đàm phán lại giá bán mới cho TKV trong năm 2022.
Tuy nhiên, cũng lưu ý rằng giá than khai thác ở Việt Nam đang đắt hơn nhiều so với thế giới ở trong giai đoạn bình thường (năm 2019 giá than Việt Nam đắt hơn 18% so với giá than nhập khẩu) nên dư địa tăng giá trong nước không còn nhiều, nhất là khi giá than thế giới có khả năng hạ nhiệt nhanh trong năm 2022.
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận