Thị trường xi măng năm 2022: Áp lực và kỳ vọng
Trong các ngành sản xuất VLXD thì ngành xi măng đang có công suất cao, cung lớn hơn cầu ở thị trường nội địa, gây áp lực lên các nhà sản xuất.
DN đối diện với áp lực nào?
Hiện cả nước có 90 dây chuyền sản xuất xi măng với tổng công suất 106,6 triệu tấn/năm, nhưng thực tế có thể sản xuất 122 triệu tấn/năm. Thị trường xi măng cung vượt cầu ở mức cao.
Bên cạnh áp lực dư cung, ngành Xi măng còn đối diện với áp lực tăng chi phí đầu vào như giá nguyên liệu sản xuất đầu vào như than, điện, xăng dầu, vỏ bao... đều tăng. Than là nguyên liệu chiếm khoảng 30% trong cơ cấu giá thành cho sản xuất xi măng nhưng giá than tăng mạnh. Việc tăng giá bán đã được DN xi măng tính đến nhưng trên thực tế DN chỉ dám tăng “rón rén”, từ 30.000 - 50.000 đ/tấn, do lo ngại xi măng nước ngoài xâm nhập thị trường nội địa, nếu giá bán trong nước cao. Xi măng là ngành chịu ảnh hưởng trực tiếp của việc tăng giá than, đang đứng trước những áp lực đầy thách thức.
Dù khó khăn, thách thức, nhưng ngành Xi măng vẫn cán đích thành công với mức tăng trưởng nhích hơn năm 2020. Tổng sản lượng sản xuất năm 2021 dự kiến 103,21 triệu tấn, tăng 1,4% so với năm 2020, tiêu thụ khoảng 105,26 triệu tấn, tăng 2% so với năm 2020. Trong đó, xi măng tiêu thụ nội địa khoảng 62 triệu tấn, tương đương năm 2020. Mặc dù sản lượng sản xuất cả năm đạt tương đương năm 2020 nhưng do nguyên, nhiên liệu sản xuất đầu vào tăng, chi phí tăng nên lợi nhuận ngành Xi măng không đạt như kỳ vọng.
Trong 3 năm gần đây, xuất khẩu xi măng và clinker của nước ta đều đạt trên 30 triệu tấn/năm, riêng năm 2021, xuất khẩu sản phẩm xi măng và clinker khoảng 42 - 45 triệu tấn, tăng 19% so với năm 2020, giá trị xuất khẩu ước đạt 2,1 tỷ USD, ghi dấu kỷ lục con số xuất khẩu cao nhất từ trước đến nay.
Cơ sở nào kỳ vọng tiêu thụ tăng?
Dự báo về thị trường xi măng năm 2022, các chuyên gia cho rằng: Sản lượng tiêu thụ xi măng nội địa sẽ tăng trở lại, nhưng biên lợi nhuận gộp của các DN sản xuất sẽ gặp áp lực lớn do cạnh tranh khốc liệt khi thị trường xi măng cung vượt cầu, cộng thêm áp lực từ tăng giá nguyên nhiên liệu đầu vào cho sản xuất. Đặc biệt, giá than trong nước dự báo điều chỉnh tăng trong năm 2022 do chi phí sản xuất, khai thác than hầm lò cao hơn.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng cụ thể của ngành Xi măng sẽ phụ thuộc vào việc kiểm soát dịch Covid - 19. Bên cạnh đó, tốc độ đô thị hóa nhanh (dự kiến tỷ lệ đô thị hóa đạt khoảng 38,5% trong năm 2020, tăng 1,16 điểm phần trăm so với 2019) cùng tăng trưởng dân số 0,9% mỗi năm sẽ thúc đẩy nhu cầu nhà ở và tiêu thụ VLXD, trong đó có xi măng tăng theo. Theo ước tính từ số liệu của CIC và Tổng điều tra dân số 2019, trong giai đoạn 2019 - 2023, tổng nhu cầu nhà ở xây mới và thay thế sẽ ở mức 691,7 nghìn căn hộ, tương đương 2,5% số căn nhà cả nước năm 2019.
Tăng giải ngân đầu tư công và đẩy mạnh các dự án đầu tư xây dựng được kỳ vọng là giải pháp thúc đẩy ngành Xi măng tăng tiêu thụ nội địa. Theo tính toán, đầu tư công tăng 1% thì GDP tăng 0,06%, nhiều ngành sẽ được hưởng lợi. Xi măng là “bánh mỳ” của ngành Xây dựng, là nguyên vật liệu quan trọng trong xây dựng công trình. Giai đoạn 2022 - 2023, các công ty xi măng mới thực sự hưởng lợi từ các dự án đầu tư hạ tầng, sau khi các công trình sử dụng vốn công đã hoàn tất giải phóng mặt bằng.
Các dây chuyền đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư đến năm 2030 là 24 dây chuyền, với tổng công suất 36,31 triệu tấn. Dự kiến đến năm 2030, cả nước có 109 dây chuyền sản xuất xi măng với tổng công suất 140,35 triệu tấn/năm. Điều đó có nghĩa là thị trường xi măng luôn có nguồn cung rất lớn, không có “cơn sốt” thiếu xi măng. Có chăng là sự phân bố không đồng đều giữa các vùng miền bởi nhiều nhà máy xi măng tập trung ở miền Bắc và miền Trung, ít ở miền Nam. Kỳ vọng đồ thị tăng trưởng đột biến từ ngành Xi măng là rất thấp.
Đề xuất tăng thuế xuất clinker thêm 5%
Thị trường xuất khẩu lớn nhất là Trung Quốc, dự báo có khó khăn trong năm 2022. Xi măng xuất khẩu sang thị trường Philipines chịu thêm thuế tự vệ của nước sở tại. Philipines (áp thuế nhập khẩu khoảng 5% giá bán), Bangladesh (áp thêm 8% GTGT từ mức 15% lên 23%). Điều này có thể tạo ra xu hướng áp thuế tại nhiều thị trường xuất khẩu khác của Việt Nam như Trung Quốc, châu Phi.
Mặt khác, Bộ Tài chính đang đề xuất Chính phủ tăng mức thuế xuất khẩu với mặt hàng clinker từ 5% lên 10% nhằm hạn chế xuất khẩu sản phẩm dùng nhiều nguyên liệu, nhiên liệu và tài nguyên khoáng sản không tái tạo. Việc tăng thuế xuất clinker là cần thiết để hạn chế xuất khẩu clinker nhưng trong bối cảnh dịch bệnh và thị trường xi măng nội địa dư cung thì áp lực tăng thuế này sẽ đè nặng lên vai các DN.
Trong Chiến lược phát triển VLXD Việt Nam, hạn chế xuất khẩu sản phẩm sử dụng nhiều nguyên liệu, nhiên liệu là tài nguyên khoáng sản không tái tạo, trong đó, riêng xuất khẩu clinker và xi măng không vượt quá 30% tổng công suất thiết kế trong giai đoạn 2021 - 2030.
Một vấn đề nữa cũng cần các DN xi măng cân nhắc, tính toán đó là: Đến năm 2023, xi măng xuất khẩu sang thị trường các nước phát triển cần đáp ứng yêu cầu hàm lượng CO2 trong sản xuất xi măng ở mức thấp. Nếu hàm lượng CO2 trong sản xuất xi măng cao như hiện nay, DN sẽ phải chịu mức thuế cao hơn.
Phát triển theo xu hướng nào?
Một cuộc cạnh tranh gay gắt, mang tính sàng lọc đang diễn biến mạnh mẽ trong thị trường xi măng. Bởi những DN nhỏ, công nghệ lạc hậu, có chi phí sản xuất cao cộng độ phủ thương hiệu kém sẽ bị bỏ lại phía sau trong cuộc cạnh tranh khốc liệt này, thậm chí khó tồn tại.
Tái cấu trúc toàn diện, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, đặc biệt các DN xi măng cần giảm hàm lượng CO2 trong sản xuất, quan tâm nhiều đến môi trường...
Chia sẻ về xu hướng của ngành Xi măng trong tương lai, TS Nguyễn Quang Cung - Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam nhấn mạnh: Xu hướng tất yếu ngành Xi măng bắt buộc phải đi là sản xuất thân thiện với môi trường. Trong đó, tập trung sản xuất xi măng các bon thấp; giảm tối đa nồng độ bụi và tận dụng nhiệt thừa để phát điện.
“Khác với các ngành khác, ngành Xi măng đầu tư cho môi trường gắn liền với hiệu quả sản xuất, góp phần phát triển bền vững. Hướng tới sản xuất xanh, tiết kiệm tài nguyên là hướng đi tất yếu của ngành Xi măng trong bối cảnh tài nguyên không tái tạo ngày càng cạn kiệt, giá than, dầu và các chi phí đầu vào ngày càng tăng” - TS Cung nhấn mạnh.
Xu hướng thứ hai, theo Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam, đó là sử dụng các giải pháp công nghệ để tăng năng suất, nâng công suất thiết kế, gia tăng phụ gia, giảm sử dụng clinker. Nhìn về dài hạn, Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam lạc quan cho rằng: Xu hướng tương lai sử dụng xi măng trong xã hội sẽ tăng, xây dựng tăng. Tiêu thu xi măng bình quân đầu người tăng 30 - 40%, từ 620 kg/đầu người lên 1.000 kg/đầu người.
Tăng cường quản lý nhà nước
Theo Vụ Vật liệu xây dựng, năm 2022, Bộ Xây dựng tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách để quản lý nhà nước lĩnh vực VLXD như tổ chức lập “Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm VLXD thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”; tham gia Đề án xây dựng Chiến lược phát triển công nghiệp vật liệu Việt Nam thời kỳ 2020 - 2030, tầm nhìn 2045 của Ban Kinh tế Trung ương.
Bộ Xây dựng theo dõi diễn biến thị trường VLXD, bảo đảm cân đối cung cầu, bình ổn thị trường. Đồng thời, tiếp tục rà soát, đề xuất hoàn thiện các chính sách liên quan đến lĩnh vực VLXD và khoáng sản làm VLXD gắn với giải pháp phát triển ổn định, bền vững, sử dụng vật liệu thay thế, tiết kiệm tài nguyên, tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường. Đôn đốc các nhà máy xi măng triển khai nghiên cứu, lắp đặt thiết bị tận dụng nhiệt thừa khí thải lò nung để phát điện, tăng cường sử dụng tro, xỉ, thạch cao làm phụ gia trong sản xuất xi măng...
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận