Các nền kinh tế Đông Nam Á không còn phụ thuộc nhiều vào các quyết định của Fed
Mặc dù lãi suất của Mỹ dự kiến vẫn ở mức cao, nhưng sức mạnh nội tại của nền kinh tế đã giúp các ngân hàng trung ương khu vực Đông Nam Á tự chủ hơn trong việc cắt giảm lãi suất dựa trên tình hình trong nước của họ.
Ông Enrico Tanuwidjaja, chuyên gia kinh tế ASEAN tại UOB
Những người theo dõi thị trường trên toàn thế giới đang háo hức dự đoán kết quả cuộc họp tiếp theo của Fed vào ngày 13/06/2024. Gần hơn, các ngân hàng trung ương khu vực cũng đang chuẩn bị cho các cuộc họp quan trọng. Ví dụ, Ngân hàng Thái Lan (BOT) sẽ tổ chức đợt xem xét lãi suất tiếp theo vào ngày 12/06, trước quyết định của Fed.
Kỳ vọng về các quyết định của Fed và BOT khá đối lập. Trong khi những người theo dõi thị trường thường kỳ vọng Fed giữ quan điểm về mức lãi suất cao, thì có nguồn tin trên thị trường rằng Thái Lan có thể tuyên bố cắt giảm lãi suất. Ở những nơi khác trên thế giới, Ngân hàng Trung ương châu Âu vào ngày 06/06 đã bắt đầu cắt giảm lãi suất 0.25 điểm phần trăm từ mức cao kỷ lục.
Singapore có chính sách tiền tệ độc đáo nhờ cách tiếp cận theo hướng tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, ít nhất, sự khác biệt như vậy giữa Fed và phần còn lại của Đông Nam Á dường như khó xảy ra hoặc thậm chí không thể xảy ra.
Nếu nhìn ở khoảng thời gian xa hơn, sự khác biệt như vậy dường như khó xảy ra hoặc thậm chí không thể xảy ra trong những năm trước. Suy cho cùng, các nền kinh tế trong khu vực bao gồm Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Philippines đã phải gánh chịu nặng nề do dòng vốn chảy ra ngoài trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á vào cuối những năm 1990, với những cuộc suy thoái trên diện rộng, tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt và đồng tiền mất giá khi các nhà đầu tư rút tiền ra.
Kể từ đó, lãi suất trong khu vực nhìn chung vẫn cao hơn lãi suất ở các thị trường phát triển, đặc biệt là Mỹ. Các loại tiền tệ của Đông Nam Á nhìn chung không thể mang lại sự an toàn và ổn định như đồng bạc xanh mang lại, do đó cần phải mang lại cho các nhà đầu tư mức lợi nhuận cao hơn đáng kể.
Tuy nhiên, mọi thứ đã thay đổi trong những năm gần đây. Khi lạm phát hậu COVID bắt đầu ảnh hưởng nặng nề vào cuối năm 2021, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã theo chân Fed trong việc tăng lãi suất. Tuy nhiên, có một điểm khác biệt lớn là mức độ thắt chặt tiền tệ thấp hơn nhiều. Với áp lực lạm phát ở Đông Nam Á ít nghiêm trọng hơn so với các nền kinh tế phát triển như Mỹ và châu Âu, các ngân hàng trung ương khu vực đã có thể kìm hãm áp lực giá cả bằng cách tăng lãi suất thấp hơn.
Fed đã tăng lãi suất cơ bản lên hơn 5 điểm phần trăm để đạt mức cao nhất 5.5% vào tháng 7/2023 và giữ nguyên lãi suất kể từ đó. Ngược lại, lãi suất của BOT chỉ ở mức 2.5% - tăng 2 điểm phần trăm trong chu kỳ thắt chặt này - trong khi lãi suất cao nhất của Ngân hàng Negara Malaysia ở mức 3%, tăng 1.25 điểm phần trăm. Lãi suất chính thức của Ngân hàng Indonesia là 6.25%, đánh dấu mức tăng 2.75 điểm phần trăm.
Mức tăng lãi suất lớn nhất Đông Nam Á là ở Philippines với mức tăng 4.5 điểm phần trăm lên mức lãi suất chính sách là 6.5%. Tuy nhiên, mức tăng này thấp hơn mức tăng lãi suất của Fed.
Indonesia, Thái Lan, Philippines và Malaysia hiện có mức độ độc lập về chính sách tiền tệ cao hơn vì cán cân bên ngoài của họ - bao gồm vị thế tài khoản vãng lai, dự trữ ngoại hối và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - mạnh hơn nhiều và có khả năng phục hồi tốt hơn so với các giai đoạn trước. Bốn nước này đã thâm hụt tài khoản vãng lai từ 3.4-7.9% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào năm 1996, ngay trước cuộc khủng hoảng tài chính châu Á.
Ngày nay, các số dư tài khoản vãng lai này mạnh hơn nhiều
Ví dụ, Indonesia thậm chí còn đạt thặng dư tài khoản vãng lai lên tới 1% GDP vào năm 2022 - và ghi nhận mức thâm hụt nhỏ chỉ 0.1% GDP vào năm ngoái - trong bối cảnh xuất khẩu các mặt hàng chủ chốt bùng nổ. Thái Lan cũng trở lại vị thế thặng dư 1.4% GDP vào năm 2023, sau khi thâm hụt trong hai năm liên tiếp kể từ năm 2020.
Malaysia đạt thặng dư tài khoản vãng lai ổn định ngay cả trước khi xảy ra đại dịch. Thặng dư đã giảm từ 3.1% GDP vào năm 2022 xuống còn 1.2% vào năm ngoái, nhưng dự kiến tăng lên 2% trong năm nay.
Trong khi đó, sau COVID-19, thâm hụt tài khoản vãng lai của Philippines đã thu hẹp đáng kể từ 4.4% GDP vào năm 2022 xuống còn 1.3% vào năm ngoái.
Những cải thiện này xuất hiện do những thay đổi lớn về mặt cấu trúc trong mỗi nền kinh tế. Điều này bao gồm các nỗ lực để nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh, cải thiện việc giám sát trong lĩnh vực tài chính và tạo dựng một thị trường vốn minh bạch và thanh khoản hơn. Những thay đổi này vẫn đang tiếp tục. Indonesia gần đây đã bắt tay vào nhiều nỗ lực hạ nguồn hơn để thúc đẩy xuất khẩu giá trị gia tăng, trong khi Thái Lan nới lỏng các hạn chế về thị thực để thúc đẩy lượng khách du lịch đến, từ đó tăng xuất khẩu dịch vụ của nước này.
Khi thế giới bước vào chu kỳ nới lỏng tiền tệ, các nền kinh tế Đông Nam Á có thể nới lỏng sớm hơn hoặc nhiều hơn. Với sự ổn định tài chính được cải thiện, các nền kinh tế này hiện có nhiều sự linh hoạt hơn để điều chỉnh lãi suất ở mức tối ưu nhằm cân bằng mục tiêu tăng trưởng và lạm phát ở từng nước. Họ không còn cần theo dõi chặt chẽ các động thái của Fed nữa.
Hiện tại, ngân hàng trung ương Philippines có vẻ khá trung lập hoặc thậm chí ôn hòa dựa trên tuyên bố quyết định chính sách tiền tệ mới nhất của họ. Việc cắt giảm lãi suất có thể sắp diễn ra và peso Philippines, là một trong những đồng tiền có khả năng phục hồi tốt hơn so với đô la Mỹ. Nước này có thể linh hoạt cắt giảm trước Fed mà không gây nguy hiểm cho sự ổn định của đồng tiền, để hỗ trợ đà tăng trưởng đang yếu đi của họ.
Mặc dù có những lo ngại về nợ hộ gia đình ở Thái Lan, nhưng vị thế bên ngoài mạnh mẽ và lạm phát thấp có nghĩa là nước này cũng có thể nới lỏng chính sách tiền tệ để thúc đẩy đà tăng trưởng. Đợt cắt giảm đầu tiên có thể diễn ra sớm nhất vào đợt đánh giá ngày 12/06 tới.
Malaysia đã chứng kiến tăng trưởng xuất khẩu chậm lại, nhưng sức mạnh nhu cầu trong nước nghĩa là nước này có thể đủ khả năng duy trì lập trường chính sách tiền tệ không thay đổi trong thời điểm hiện tại.
Indonesia có thể là nước thận trọng nhất trong việc cắt giảm lãi suất do nguy cơ lạm phát nhập khẩu leo thang. Ngoài ra, trong khi vị thế bên ngoài của đất nước được cải thiện đáng kể trong những năm qua, Ngân hàng Indonesia có thể thận trọng trong việc giữ lãi suất ở mức cao để thu hút dòng vốn quay trở lại trong nước.
Singapore, mặc dù vận hành không thông qua cơ chế lãi suất trực tiếp mà thông qua chính sách tỷ giá hối đoái, cũng có thể nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng, khi đà tăng trưởng đang chậm lại.
Bất kể mỗi ngân hàng trung ương làm gì, giờ đây, họ có nhiều quyền tự do hơn trong việc điều chỉnh chính sách tiền tệ so với trước đây. Ảnh hưởng của Fed với tư cách là cơ quan ấn định lãi suất trên thực tế đang suy yếu, ít nhất là ở khu vực này của thế giới.
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận