Thị trường vàng cần trưởng thành hơn
Theo TS. Đinh Thế Hiển, chuyên gia tài chính ngân hàng, Nhà nước có đủ quyền lực và giải pháp để ổn định thị trường vàng. Cho phép nhập khẩu vàng có kiểm soát để giảm thiểu tình trạng mất cân bằng cung cầu vàng miếng trong nước là một bước đi phù hợp.
Đã đến lúc chấm dứt độc quyền vàng miếng
Trong cuộc họp mới đây vào ngày 20-3-2024, NHNN đã đề xuất xóa bỏ việc Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng SJC, cấp phép sản xuất vàng miếng cho một số doanh nghiệp đủ điều kiện. Đồng thời, NHNN sẽ thực hiện cấp hạn mức sản xuất vàng miếng trong từng thời kỳ phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ và sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô. Ông đánh giá như thế nào về giải pháp này?
Bên cạnh đó, chênh lệch giữa giá mua – giá bán vàng miếng cùng một thương hiệu ở mức hợp lý, chừng hai ba trăm ngàn đồng/lượng, người dân không phải đóng các loại phí. Nhưng sau đó, khi chỉ có vàng SJC, thì chênh lệnh mua – bán tăng, chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế tăng dần trên 2 triệu đồng/lượng, rồi 4 triệu đồng/lượng và lên hơn 10 triệu đồng/lượng, rất bất hợp lý. Ngoài ra, do thế độc quyền nên người dân bị “hành” khi bán vàng SJC, chỉ cần rách bao bì miếng vàng, người dân bị trừ cả trăm ngàn.
Dù sao Nghị định 24/2012 ban hành đã giúp kiểm soát thị trường vàng, tỷ giá và lãi suất, vì vậy, không thể tránh khỏi những lo ngại nếu có sửa đổi, sẽ xuất hiện những vướng mắc mới, đặc biệt là vấn đề tỷ giá. Quan điểm của ông như thế nào?
Trước tiên, chúng ta cần có những nhận định khách quan hơn về giai đoạn 2008-2012. Những rối loạn trên thị trường tài chính thời điểm đó có nguyên nhân chủ yếu đến từ hiện tượng một số ông chủ, nhà chủ lớn lũng đoạn ngân hàng, cho vay sân sau để đầu tư quá mức vào bất động sản; cho đến khi thị trường đóng băng thì các đại gia không thể trả nợ ngân hàng và rối loạn đã xảy ra.
Cụ thể, các ngân hàng nhỏ do đại gia chi phối không thể thu hồi nợ công ty sân sau, thiếu tiền và phải tăng lãi suất huy động, dẫn đến cuộc đua lãi suất huy động có lúc lên đến 14%, và lãi suất cho vay vượt quá 20% làm rối loạn hệ thống tài chính tiền tệ, đưa các ngân hàng vào tình trạng rủi ro.
Do vậy việc kinh doanh vàng giai đoạn này không phải là nguyên nhân chính của tình trạng rối loạn hệ thống tiền tệ, ngân hàng lúc đó, mà chính là từ sự thiếu kiểm soát hoạt động cho vay, đầu tư của ngân hàng và công ty bất động sản. Tuy nhiên cũng cần nói thêm, giai đọan này hoạt động của các sàn giao dịch vàng tài khoản, từ sàn có tính “công khai” như ACB cho tới những sàn “chui” đã gây ra những biến động, hệ lụy lớn, và vì thế, NHNN đã ban hành Nghị định 24/2012 cấm giao dịch sàn vàng và không cho kinh doanh vàng miếng tự do nữa như chúng ta đã biết. Trong đó, việc ngưng hoạt động của sàn vàng là đúng, còn việc không cho kinh doanh vàng miếng, chỉ còn thương hiệu SJC là chưa hợp lý.
Vậy sửa đổi Nghị định 24/2012 theo đề xuất đã nêu có gây ra áp lực gì tới nguồn ngoại tệ dự trữ và vấn đề tỷ giá hay không? Năm 2023, thặng dư thương mại của Việt Nam ước đạt 26 tỉ đô la Mỹ, vậy thì việc bỏ ra vài tỉ đô la để nhập khẩu vàng có kiểm soát, để tăng thêm nguồn cung vàng trong nước vốn rất hạn chế trong hơn 10 năm nay không phải là một vấn đề lớn. Bài toán cân đối vĩ mô chắc chắn đã được các nhà quản lý cân nhắc kỹ càng và quyền kiểm soát hạn mức nhập khẩu vẫn thuộc về Nhà nước ngay cả khi sửa đổi Nghị định 24/2012.
Vả lại, khi tồn tại mức chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và thế giới, đương nhiên sẽ xảy ra tình trạng buôn lậu vàng qua biên giới. Mức chênh lệch càng lớn, động cơ kiếm lợi nhuận phi pháp càng cao. Dù không dùng để nhập khẩu chính ngạch, ngoại tệ cũng sẽ chảy ra khỏi đất nước để nhập khẩu vàng lậu gây ra những biến động bất thường trên thị trường đô la Mỹ tự do. Để hạn chế buôn lậu vàng, tất nhiên cần sự vào cuộc quyết liệt và chặt chẽ hơn nữa của các lực lượng chức năng nhưng quan trọng hơn là phải làm giảm động lực kiếm lợi phi pháp, tức là giảm mức chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới.
Thị trường vàng sẽ dần ổn định
Công điện của Thủ tướng về các giải pháp quản lý thị trường vàng hồi cuối năm ngoái cũng đề cập tới vấn đề xử lý nghiêm các vi phạm, nhất là buôn lậu vàng qua biên giới, trục lợi, đầu cơ, thao túng, lợi dụng chính sách đẩy giá. Chúng ta đã đề cập tới việc ngăn chặn buôn lậu vàng qua biên giới, vậy nhưng nếu các hành vi vi phạm còn lại không được xử lý, thị trường vàng vẫn sẽ đối diện nguy cơ bị rối loạn. Ông nghĩ thế nào về việc thiết kế chính sách thuế phù hợp để hạn chế tình trạng này?
Giá vàng trong nước tăng trong thời gian vừa qua là kết quả của ba yếu tố: (1) giá vàng thế giới tăng dữ dội, tới cuối tuần này (22-3-2024) đã vượt ngưỡng 2.200 đô la Mỹ/oz; (2) thị trường bất động sản trong nước suy giảm mạnh; (3) lãi suất huy động tại các ngân hàng thương mại thấp nhất trong lịch sử. Vì vậy, một bộ phận người dân có tiền nhàn rỗi chuyển sang tích trữ bằng vàng, và trong khi cung trong nước hạn chế, chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới vốn đã cao, càng bị đẩy lên cao.
Dù vậy, đây chỉ là vấn đề mang tính thời điểm. Người dân chỉ tiếp tục đầu tư vào vàng với kỳ vọng giá vàng thế giới tăng trên ngưỡng 3.000 đô la/oz. Thậm chí, ngay cả với khả năng ấy, số lượng nhà đầu tư mua vàng ở ngưỡng 80 triệu đồng/lượng, chờ tăng giá sinh lời ở mức 90 triệu đồng/lượng hay 100 triệu đồng/lượng cũng không nhiều. Chỉ cần nền kinh tế có dấu hiệu hồi phục, người dân sẽ chuyển tiền sang kênh bất động sản hay chứng khoán, thay vì găm vào vàng.
Về vấn đề đầu cơ, thao túng giá vàng, tại một thị trường càng ít liên thông với thế giới thì nguy cơ này càng lớn. Tuy nhiên, nhóm người này là những người kinh doanh kiểu lướt sóng, có khẩu vị rủi ro cao chứ không phải đại đa số người dân. Nhà nước có đủ quyền lực và công cụ để xử lý vấn đề này. Căn bản nhất là phải tiếp tục cấm thành lập sàn vàng vì đó chỉ là nơi để “các cai đầu dài” kiếm lợi thôi.
Câu chuyện điều tiết giá vàng bằng chính sách thuế lại rất khác. Hiện tại, điểm rất lạ là dù giá vàng miếng trong nước chênh lệch ở mức rất cao so với thế giới, Nhà nước không hề được hưởng lợi. Trong khi đó, bản thân vàng là một loại tài sản đặc biệt, không khuyến khích tích trữ nên cần có chính sách thuế đặc biệt để điều tiết. Tôi cho rằng, Nhà nước có thể định ra một mức thuế nhập khẩu nhất định trên mỗi lượng vàng nhập về, số tiền thuế thu được sẽ dùng vào mục tiêu phát triển kinh tế, bù đắp cho lượng đô la chảy ra nước ngoài do nhập khẩu vàng.
Quả thật, ngay trong những đề xuất sửa đổi Nghị định 24/2012, quan điểm chủ đạo vẫn là Nhà nước quản lý và điều tiết thị trường vàng, nhưng đồng thời vẫn để giá vàng trong nước liên thông hơn với thế giới. Với cách quản lý như vậy, ông kỳ vọng như thế nào về sự ổn định của thị trường vàng thời gian sắp tới?
Nếu thị trường vàng được bổ sung một nguồn cung hợp lý, vấn đề chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới sẽ được giải quyết. Vấn đề cốt lõi trong việc ổn định thị trường vàng và ổn định tỷ giá là chúng ta phải duy trì được giá trị của đồng nội tệ. Điều này đạt được thông qua việc kiểm soát lạm phát và trong nhiều năm nay, mục tiêu lạm phát dưới 4% luôn đạt được. Như vậy, không cần quá lo ngại về giá vàng tăng hay chênh lệch tỷ giá theo hướng bất lợi cho đồng tiền Việt Nam.
Đặc biệt, Nhà nước đã đủ nguồn lực và giải pháp để quản lý tốt thị trường vàng. Về giải pháp cứng, đó là các biện pháp chống buôn lậu vàng qua biên giới, xử lý những hành vi vi phạm trong kinh doanh vàng trên thị trường. Những việc này cần làm và tiếp tục phải làm tốt hơn.
Đồng thời, chúng ta phải dùng tới giải pháp mềm. Đó là từng bước thị trường hóa các hoạt động của nền kinh tế, trong đó có cả thị trường vàng. Từ giai đoạn 2012-2024, thị trường vàng được quản lý khép kín. Khi lạm phát được kiểm soát tốt, thặng dư thương mại ở mức cao, NHNN đã đề xuất một giải pháp mở hơn. Thị trường vàng đang dần hòa nhập với phương thức hoạt động theo kinh tế thị trường có quản lý nhà nước, đúng như định hướng phát triển của toàn nền kinh tế Việt Nam.
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận