New Zealand: Tại sao Chính phủ không in tiền để xóa nợ?
Với việc Chính phủ New Zealand vay 25 tỷ USD trong năm tài chính 2019/2020 để tài trợ cho việc ứng phó và khắc phục đại dịch Covid-19, nhiều người cho rằng Wellington có thể xóa nợ chỉ đơn giản bằng cách in thêm tiền.
Thoạt đầu điều này nghe có vẻ là một ý tưởng hợp lí, nhưng theo các chuyên gia kinh tế thực sự là một phương án có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
Theo thuyết tiền tệ hiện đại (tiếng Anh là Modern Monetary Theory, gọi tắt là MMT), các chính sách tiền tệ mở rộng, hay nói cách khác nguồn tiền từ ngân hàng trung ương tạo ra, được sử dụng để tài trợ cho các khoản chi tiêu của chính phủ. Theo những người ủng hộ thuyết MMT, một quốc gia phát hành tiền tệ của riêng mình thì nguồn tiền không bao giờ có thể cạn kiệt và không bao giờ có thể bị vỡ nợ bằng đồng tiền đó. Chúng có thể thực hiện tất cả các khoản thanh toán khi đến hạn và không mang rủi ro vỡ nợ.
Học thuyết hiện đại nhưng không phù hợp
Tuy nhiên, học thuyết này được các chuyên gia tài chính ngân hàng đánh giá là một quan niệm sai lầm về kinh tế. Thậm chí, các nhà kinh tế tên tuổi như Paul Krugman, người đoạt giải Nobel và nhà báo chuyên mục kinh tế của tờ New York Times và giáo sư Greg Mankiw (Đại học Harvard) kịch liệt phản đối quan niệm trên.
Khi chính phủ chi tiêu nhiều hơn số tiền thu được từ các khoản thuế, họ buộc phải phải vay tiền từ bên ngoài (được gọi là tài trợ thâm hụt), và sau đó chỉ thị cho kho bạc phát hành trái phiếu công nợ. Khoản nợ thường được nắm giữ bởi các ngân hàng tư nhân, tổ chức đầu tư và các nguồn quỹ khác trong xã hội. Bởi vì chính phủ cố gắng tránh xảy ra tình trạng vỡ nợ, vậy nên khoản vay bên ngoài có thể được coi là tạm thời bảo đảm an toàn.
Tuy nhiên, những trái phiếu này thường có thể được phát hành với lãi suất thấp hơn trái phiếu từ các tổ chức tài chính khác. Có ba loại trái phiếu chính: trái phiếu kho bạc ngắn hạn, trái phiếu kho bạc trung hạn và trái phiếu kho bạc dài hạn. Trái phiếu kho bạc ngắn hạn có thời gian đáo hạn ngắn nhất (dưới một năm) trong khi trái phiếu kho bạc có thời gian đáo hạn từ mười năm trở lên.
Khoản nợ đi đâu khi in thêm tiền?
Nhằm hỗ trợ chính phủ giải quyết các khoản nợ, Ngân hàng Dự trữ New Zealand (RBNZ) tiến hành biện pháp "nới lỏng định lượng" bằng các mua các trái phiếu do chính phủ phát hành. Để làm được điều này, RBNZ bắt đầu in tiền để thanh toán cho trái phiếu, và khi đó lượng tiền này sẽ đi vào lưu thông trên thị trường làm tăng nguồn cung ứng tiền tệ.
Việc nới lỏng định lượng khiến hệ thống tiền tệ tràn ngập các thanh khoản, tức là những tài sản hoặc sản phẩm có thể chuyển đổi thành tiền mặt hay lượng tiền sẵn có để đầu tư và chi tiêu. Ngược lại, biện pháp này sẽ giảm áp lực lãi suất vì tiền đi vay sẽ rẻ hơn khi trên thị trường càng có nhiều tiền.
Ngoài ra, RBNZ cũng có thể áp dụng giảm mức lãi suất cơ bản (OCR) nhằm hạ mức lãi suất của ngân hàng bán lẻ trên các khoản thế chấp và tiền gửi tiết kiệm. Mục đích trong cả hai trường hợp là làm cho việc đi vay nợ rẻ hơn với hy vọng rằng các doanh nghiệp sẽ đổ dồn vay tiền để đầu tư, từ đó tạo ra nhiều việc làm hơn.
Nếu RBNZ mua trái phiếu chính phủ từ các ngân hàng bán lẻ và các nhà đầu tư đã mua chúng trước đó, thì theo đó các chủ nợ đã được "thanh toán" xong.
Thế nhưng suy xét lại, chính phủ không thể đơn giản xóa các khoản nợ như vậy.
Thực tế, khoản nợ không biến mất, nó chỉ ở dạng lượng tiền bổ sung trôi nổi trên nền kinh tế. Tại một thời điểm nào đó, số tiền bổ sung này sẽ được gửi vào các ngân hàng thương mại và được giữ như một khoản dự trữ thu lãi từ RBNZ.
Đồng tiền đang lưu hành thực chất là "đồng tiền pháp định" (legal tender) do chính phủ hậu thuẫn. Nếu không muốn giữ nó, những người nắm giữ số tiền này có thể bán ngược lại trở lại RBNZ để đổi lại thứ có giá trị tương đương, chẳng hạn như ngoại tệ.
Nguy cơ lạm phát và khủng hoảng niềm tin
Trong khi đó, nếu mức lãi suất thấp không mang lại kết quả mở rộng kinh doanh và nâng cao sản xuất thì hệ quả là tồn tại một lượng tiền lớn hơn luân chuyển trong nền kinh tế mà không có bất kì sản xuất mới nào ra đời.
Điều này sẽ gây áp lực lạm phát, khiến những người tiết kiệm trở nên bất mãn và sụt giảm nhu cầu gửi tiết kiệm tại các ngân hàng nói chung. Bởi việc gửi tiết kiệm của các hộ gia đình tại ngân hàng cơ bản chính là hình thức huy động vốn cho các doanh nghiệp vay.
Trong trường hợp không tăng sản lượng, khoản tiền tăng thêm này chuyển đến các tài sản tài chính phi sản xuất như cổ phiếu và nhà ở, tạo ra bong bóng đầu cơ trên các thị trường đó.
Trong thời kỳ kinh tế suy thoái sâu sắc, không phải việc thiếu hụt các khoản vay kìm hãm doanh nghiệp hoạt động mà chính là việc họ không thể bán hàng hóa của mình với mức giá hiện hành. Điều này làm giảm nhu cầu về lao động, giảm nhu cầu về hàng hóa vì nhiều người tiêu dùng cắt giảm chi tiêu do thất nghiệp.
Tuy nhiên, việc cho chính phủ vay nợ là một trò chơi dài hạn. Bất kể biện pháp tài trợ thâm hụt hay in tiền được thực hiện, mọi hoạt động vay mượn đều dựa trên sự tin tưởng rằng chính phủ sẽ tôn trọng khoản nợ mà họ cho vay.
Không một chính phủ nào có thể đáp ứng tất cả các chủ nợ nếu họ muốn lấy lại tiền cùng một lúc. Vậy nên miễn là chính phủ tiếp tục trả lãi cho các khoản vay, hoặc ít nhất có khả năng trả lại cho một số chủ nợ đó (đôi khi bằng cách vay nhiều hơn), thì nền kinh tế vẫn ổn định.
Nếu vì một lý do nào đó mà sự tin tưởng vào một chính phủ bị biến mất do xuất hiện bất kỳ dấu hiệu nào về việc vỡ nợ hoặc không tôn trọng các nghĩa vụ vay nợ sẽ dẫn đến thiệt hại lâu dài cho uy tín của chính phủ và khả năng vay nợ của chính phủ trong tương lai. Bởi sẽ không ai muốn nắm giữ khoản nợ của chính phủ dưới hình thức trái phiếu chính phủ.
Khi điều đó xảy ra sẽ dẫn đến hậu quả một nguồn tiền vốn chảy ra khỏi đất nước khi mọi người đổ xô tìm kiếm lợi nhuận ở nơi khác. Đồng tiền mất giá sẽ gây ra những ảnh hưởng thảm khốc đối với nền kinh tế, chẳng hạn như xảy ra trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997.
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận