Công bố Top 500 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2021
Ngày 30/11/2021, Công ty Cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) phối hợp cùng Báo VietNamNet công bố Bảng xếp hạng VNR500 – Top 500 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2021.
Danh sách 1: Top 10 Bảng xếp hạng Top 500 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2021
Danh sách 2: Top 10 Bảng xếp hạng Top 500 Doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam năm 2021
Kinh tế Việt Nam và cộng đồng doanh nghiệp VNR500: Góc nhìn từ Bảng xếp hạng VNR500 năm 2021
Trải qua gần 2 năm kể từ khi đại dịch COVID-19 bắt đầu bùng phát, kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức to lớn. Nhìn chung, các chỉ số kinh tế vĩ mô đều cho thấy nền kinh tế đã bị “tổn thương” trên nhiều phương diện và cần nhiều nỗ lực để hướng đến một giai đoạn hồi phục và tiếp tục tăng trưởng. Năm 2020, mặc dù thành công trong việc duy trì mức tăng trưởng dương nhưng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã giảm xuống mức 2,9%. Tuy nhiên, với những giải pháp giãn cách xã hội nghiêm ngặt để phòng chống dịch thì đến quý III/2021, tăng trưởng kinh tế suy giảm kỷ lục với mức -6,17% so với cùng kỳ năm 2020. Tính chung trong 9 tháng đầu năm 2021 thì tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế chỉ đạt 1,42% và đây là mức tăng trưởng chậm nhất kể từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc Đổi mới (năm 1986) cho đến nay.
Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế 9 tháng đầu năm 2021 chỉ tăng 1,42% so với cùng kỳ năm trước đã cho thấy hậu quả của đợt bùng phát đại dịch COVID-19 gần đây nhất tại Việt Nam. Đợt bùng phát trên diện rộng tại nhiều tỉnh thành phố đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phải thực hiện giãn cách xã hội kéo dài để phòng chống dịch bệnh. Trong bức tranh ảm đạm của nền kinh tế 9 tháng qua thì khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn là “bệ đỡ” vững chắc cho an ninh lương thực quốc gia khi có mức tăng 2,74%, bên cạnh đó là khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,57% nhưng khu vực dịch vụ lại giảm 0,69%. Số liệu nghiên cứu từ Bảng xếp hạng VNR500 năm 2021 so với Bảng xếp hạng VNR500 năm 2020 cũng cho thấy tổng doanh thu của nhóm ngành nông lâm thủy sản có mức tăng đáng kể 25,7%, trong khi khu vực công nghiệp - xây dựng và khu vực dịch vụ tương ứng giảm 14,8% và 5,9% so với năm ngoái.
Đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp VNR500
Xét về các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của toàn bộ doanh nghiệp trong Bảng xếp hạng VNR500 năm nay, tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA) bình quân và tỷ suất sinh lời trên doanh thu (ROS) bình quân của các doanh nghiệp bị giảm so với Bảng xếp hạng VNR500 năm ngoái. Cụ thể, ROA bình quân của các doanh nghiệp VNR500 năm nay đạt 5,31% - giảm 0,42 điểm phần trăm so với Bảng xếp hạng VNR500 năm 2020. Chỉ số ROS bình quân cũng giảm xuống 6,15% so với mức 6,58% của năm ngoái. Ở chiều ngược lại, tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) bình quân tăng nhẹ từ 16,24% trong Bảng xếp hạng VNR500 năm 2020 lên 16,42% trong năm nay.
Xét theo khu vực kinh tế, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vẫn ghi nhận hiệu quả sử dụng tài sản và vốn chủ sở hữu cùng hiệu suất sinh lời trên doanh thu tốt hơn rất nhiều so với hai khu vực kinh tế còn lại là khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân. Điểm sáng hiếm hoi đáng ghi nhận là trong khi các chỉ số này của hai khu vực FDI và Tư nhân đều cho thấy xu hướng giảm nhẹ so với năm trước, thì đối với khu vực kinh tế Nhà nước, các chỉ số đo lường hiệu quả sử dụng tài sản, vốn, khả năng sinh lời trên doanh thu có dấu hiệu tăng, đặc biệt chỉ số ROS có mức tăng nhiều nhất, 1,82 điểm phần trăm so với Bảng xếp hạng năm 2020.
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước và khả năng chống chịu các cú sốc, như COVID-19 vừa qua, đóng vai trò hết sức quan trọng do khu vực này có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Với các chỉ số trên có thể thấy về tổng thể, doanh nghiệp Nhà nước đạt kết quả hoạt động tốt hơn so với mức bình quân của các doanh nhiệp trong nước trong thời gian qua. Theo báo cáo mới đây về Kết quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước và tác động của COVID-19 của World Bank cũng chỉ ra các doanh nghiệp Nhà nước được hưởng lợi một phần từ một số chính sách trong gói hỗ trợ kinh tế COVID-19 của Chính phủ dành cho các doanh nghiệp, hầu hết các doanh nghiệp đều có khả năng kiểm soát, nhờ dự phòng và thích ứng với khủng hoảng (giữa năm 2020) thông qua những biện pháp về hoạt động và tài chính nhằm hạn chế tác động tiêu cực.
Dịch bệnh COVID tác động đến các doanh nghiệp Nhà nước và nới rộng khoảng cách về hiệu quả hoạt động, dù không đồng đều giữa các ngành. Dịch bệnh tác động đặc biệt nặng nề đến ngành vận tải và các ngành nhà hàng, khách sạn và du lịch (với mức suy giảm 14 ngàn tỷ đồng - từ lợi nhuận 3,5 ngàn tỷ đồng năm 2019 sang thua lỗ 11,1 ngàn tỷ đồng năm 2020), do những ngành này bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi các biện pháp giãn cách xã hội và hạn chế đi lại (theo báo cáo của World Bank).
Biến động tổng doanh thu của một số ngành chính trong Bảng xếp hạng VNR500 năm 2021
Từ thống kê của Bảng xếp hạng VNR500 năm 2021 cho thấy hầu hết các ngành đều có sự sụt giảm về tổng doanh thu so với Bảng xếp hạng năm ngoái. Các ngành Bán lẻ, Thép, Tài chính và Điện ghi nhận tổng doanh thu tăng trưởng dương trong Bảng xếp hạng năm 2021 so với năm 2020. Các nhóm ngành còn lại chứng kiến sự sụt giảm đáng kể về tổng doanh thu trong năm qua. Những ngành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi đại dịch là Vận tải – Logistics, Khoáng sản - Xăng dầu, Cơ khí và Thực phẩm – Đồ uống.
Như vậy, đợt bùng phát đại dịch COVID-19 mới nhất đã đẩy cộng đồng doanh nghiệp vào những khó khăn, thách thức to lớn. Nhiều doanh nghiệp bị đóng cửa hoặc giảm công suất hoạt động và đối mặt với nguy cơ phá sản khi nguồn lực bị hao hụt. Chuỗi cung ứng trong nước và quốc tế bị gián đoạn thậm chí “đứt gãy” do các đợt giãn cách xã hội liên tiếp. Đặc biệt lưu ý là tình trạng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tính chung 11 tháng năm 2021 đang lan rộng với 106,5 nghìn
Tác động của đại dịch COVID-19 đến doanh thu của các doanh nghiệp niêm yết trong Bảng xếp hạng VNR500 năm 2021 qua hai giai đoạn
Số liệu thống kê từ Bảng xếp hạng VNR500 năm nay đối với 270 doanh nghiệp niêm yết đã công bố báo cáo tài chính quý III/2021 cho thấy có 40,4% doanh nghiệp vẫn giữ vững được đà tăng trưởng doanh thu trong suốt giai đoạn 2019 - 2020 và 9 tháng đầu năm 2021. Bên cạnh đó, 23,3% doanh nghiệp đã bắt đầu phục hồi và lấy lại được đà tăng trưởng doanh thu trong 9 tháng đầu năm nay. Như vậy, có tới 63,7% doanh nghiệp ghi nhận doanh thu 9 tháng đầu năm 2021 tăng lên so với cùng kỳ năm trước, đây là dấu hiệu tích cực minh chứng cho những nỗ lực và khả năng thích ứng của các doanh nghiệp niêm yết trong VNR500 trước những biến động kinh tế - xã hội kể từ khi đại dịch xuất hiện. Ngoài ra, 15,2% doanh nghiệp trong số này bị tăng trưởng chậm lại và ghi nhận mức doanh thu 9 tháng 2021 giảm so với cùng kỳ năm 2020. Còn lại, 21,1% doanh nghiệp thuộc nhóm phục hồi chậm với doanh thu giảm 2 kỳ liên tiếp - doanh thu năm 2020 giảm so với năm 2019 và 9 tháng đầu năm 2021 giảm so với cùng kỳ năm trước.
Trong khảo sát của Vietnam Report đối với Top 500 doanh nghiệp lớn Việt Nam cũng cho thấy những đánh giá tổng quan của cộng đồng doanh nghiệp VNR500 đối với tác động tiêu cực của đại dịch. Cụ thể, 48,7% số doanh nghiệp phải cắt giảm nhân sự, cùng với đó có tới 48,0% số doanh nghiệp bị giảm năng suất lao động và lượng khách hàng cũng bị giảm 47,4% so với khi dịch chưa bùng phát. Do vậy, doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm xuống đáng kể theo đánh giá của 57,9% doanh nghiệp VNR500; đi cùng với đó là 67,1% doanh nghiệp cho biết mức chi phí của họ tăng lên trong thời gian này.
5 cơ hội và 4 thách thức của nền kinh tế nói chung và cộng đồng doanh nghiệp thời kỳ bình thường tiếp theo
Mặc dù nền kinh tế đã gánh chịu những tổn thất nghiêm trọng cả về mặt sản lượng quốc gia cũng như hiệu quả hoạt động thấp của cộng đồng doanh nghiệp, tuy nhiên những tín hiệu lạc quan đã xuất hiện khi mà tình hình dịch bệnh đã dần được khống chế và tỷ lệ người dân chích ngừa vắc xin tăng lên nhanh chóng. Từ đầu tháng 10/2021, Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thành phía Nam đã tái khởi động lại và dần chuyển sang giai đoạn “bình thường mới”.
Sơ bộ kết quả điều tra cộng đồng doanh nghiệp do Vietnam Report thực hiện trong năm 2021 cho thấy tổng quan có 56% doanh nghiệp lạc quan về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý IV/2021 với gần 40% doanh nghiệp đánh giá tình hình kinh doanh sẽ dần đi vào ổn định và diễn biến thị trường sẽ tốt hơn. Một số khảo sát điển hình đối với từng nhóm ngành chính trong nền kinh tế của Vietnam Report cũng cho thấy có một tỷ lệ nhất định doanh nghiệp lạc quan về cơ hội trong thời kỳ bình thường tiếp theo. Cụ thể, khoảng 10% doanh nghiệp ngành Bán lẻ nhận định thị trường sẽ nhanh chóng hồi phục và kết quả kinh doanh sẽ khởi sắc; hơn 20% doanh nghiệp ngành Thực phẩm đồ uống cho rằng đã chuẩn bị cho sự hồi phục trở lại của thị trường; 58% doanh nghiệp ngành Ngân hàng tài chính vẫn đảm bảo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và tin tưởng vào khả năng phục hồi kinh tế cuối năm.
Mặc dù vậy nền kinh tế Việt Nam nói chung và cộng đồng doanh nghiệp đang đón nhận cả cơ hội và thách thức trong những tháng cuối năm cũng như cả đầu năm 2022.
Năm cơ hội
Trong khảo sát doanh nghiệp VNR500 của Vietnam Report, bên cạnh việc ủng hộ Chính phủ ưu tiên đẩy mạnh tốc độ và mở rộng quy mô tiêm chủng vắc-xin COVID-19 (77,6%); chuẩn bị sẵn các kịch bản ứng phó nếu dịch tái bùng phát (75,0%); các doanh nghiệp còn mong muốn Chính phủ thực hiện các gói hỗ trợ lãi suất để giảm chi phí vay nợ (73,7%); kiểm soát lạm phát và ổn định vĩ mô (67,1%); tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính (64,5%). Đây là những vấn đề chính sách cốt yếu đề xuất với Chính phủ để hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp trong thời kỳ bình thường tiếp theo.
Bốn thách thức
Chỉ xét riêng các tác động tiêu cực trong đợt bùng phát dịch lần thứ tư vừa qua, theo kết quả khảo sát được Vietnam Report tiến hành trong tháng 11 cho thấy 92,0% doanh nghiệp bị gián đoạn quy trình làm việc do nhân sự tuân thủ giãn cách xã hội; 89,2% doanh nghiệp có chi phí sản xuất tăng vọt do phương án 3 tại chỗ, cước vận chuyển, bị phạt vì vi phạm hợp đồng,…; 81,9% doanh nghiệp bị giảm sản lượng do gián đoạn sản xuất; 77,8% doanh nghiệp gặp ách tắc trong hoạt động mua nguyên vật liệu đầu vào.
Dự báo về triển vọng của nền kinh tế và chiến lược thích ứng của doanh nghiệp
Dự báo về triển vọng của nền kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam đã trải qua quý III/2021 với sự sụt giảm sản lượng ở mức kỷ lục, tuy nhiên, đà suy giảm của nền kinh tế không quá bất ngờ khi các trung tâm kinh tế lớn của quốc gia đều chịu các tác động tiêu cực từ giãn cách xã hội nghiêm ngặt để phòng chống dịch bệnh. Mặc dù vậy, quý IV/2021 đang được kỳ vọng sẽ vực dậy các động lực tăng trưởng cho sản lượng quốc gia khi mà chỉ tiêu GDP trong 9 tháng đầu năm chỉ tăng được 1,42%. Nhìn chung việc tình hình tăng trưởng quý IV cũng như cả năm 2021 phụ thuộc nhiều vào tình hình mở cửa nền kinh tế cũng như diễn biến dịch bệnh ở cả trong nước và quốc tế. Mặc dù vậy, gần như chắc chắn nền kinh tế sẽ không đạt được mức tăng trưởng 6% như mục tiêu đặt ra từ cuối năm 2020. Cơ quan thống kê quốc gia đã đưa ra hai kịch bản, trong đó, kịch bản 1, tăng trưởng GDP cả năm đạt 2,5% và ở kịch bản 2, tăng trưởng GDP là 3%.
Bên cạnh việc đẩy mạnh độ phủ vắc xin thì các gói hỗ trợ kinh tế sẽ được các cơ quan chức năng nghiên cứu thực hiện để tạo đà cho sự phục hồi của nền kinh tế. Dự báo sẽ có các gói cứu trợ lớn được thực hiện trong thời gian tới mặc dù hiện tại các cơ quan chức năng vẫn chưa được chính thức quyết định và công bố. Tuy nhiên, triển vọng các gói cứu trợ được thực hiện đang tạo bầu không khí lạc quan và có tính lan tỏa rộng khắp các lĩnh vực kinh tế.
Dựa trên diễn biến dịch bệnh vẫn đang rất phức tạp, chưa thể kết thúc, chưa dự báo được thời gian tới có xuất hiện biến chủng nguy hiểm mới hay không. Trong bối cảnh đó, Việt Nam và nhiều quốc gia đã chuyển từ chiến lược “Zero COVID” sang chấp nhận “sống chung với COVID-19” để vừa có thể chống dịch nhưng vẫn đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội và an sinh xã hội. Như vậy, chiến lược thích ứng của các doanh nghiệp là chuyển sang giai đoạn sản xuất kinh doanh trong bối cảnh cộng đồng chấp nhận “sống chung “ với dịch bệnh.
Trong thời gian tới đây, các kế hoạch thích ứng với tình hình “bình thường mới” cần phải được thiết lập mau lẹ như quy trình chuyển đổi số cần đẩy mạnh tối đa để gia tăng các hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên nền tảng số, quy trình kết hợp sản xuất kinh doanh với chiến lược phòng chống dịch bệnh 5K, quy trình thực hiện mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh trong bối cảnh các đợt giãn cách xã hội diễn ra trên quy mô nhỏ hẹp. Như vậy, các doanh nghiệp cần chuyển nhanh hoạt động sang bối cảnh “bình thường mới” với sự chuẩn bị, triển khai để “chung sống với dịch bệnh”. Dự báo trong thời gian tới các đơn hàng xuất khẩu sẽ gia tăng mạnh khi thế giới sắp có các đợt nghỉ lễ quan trọng vào dịp cuối năm 2021 và tạo dư địa phục hồi cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam ở nhiều lĩnh vực may mặc, giày dép, quần áo, các đồ quà tặng hiện đang tăng tốc sản xuất trở lại. Ngành du lịch được dự báo cũng sẽ phục hồi nhanh chóng khi nền kinh tế tái mở cửa để đón khách du lịch nước ngoài.
Chiến lược thích ứng của doanh nghiệp trong thời kỳ bình thường tiếp theo
Nhận định về các chiến lược ưu tiên trong thời kỳ bình thường tiếp theo, các doanh nghiệp VNR500 trong khảo sát của Vietnam Report cho biết 76,3% doanh nghiệp quyết định tăng cường sử dụng công nghệ mới, đầu tư vào đổi mới sáng tạo và R&D; 71,1% doanh nghiệp lựa chọn bảo vệ hoạt động kinh doanh cốt lõi; 65,8% doanh nghiệp sẽ mở rộng sang các thị trường hoặc phân khúc mới; 64,5% doanh nghiệp thực hiện cải thiện năng lực kỹ thuật số của doanh nghiệp; và 50,0% doanh nghiệp quan tâm tới việc nâng cao trách nhiệm xã hội. Nhìn chung, trong thời gian tới, các doanh nghiệp VNR500 vẫn tập trung chú trọng tới ứng dụng công nghệ số một cách toàn diện, kiên định bảo vệ hoạt động kinh doanh cốt lõi và từng bước mở rộng phạm vi kinh doanh tới các thị trường tiềm năng.
Chuyển đổi số - chìa khóa thành công trong thời kỳ bình thường tiếp theo
Đại dịch COVID-19 bùng phát trên toàn thế giới đã làm thay đổi nhận thức kinh doanh trong nhiều lĩnh vực. Trong đó, các doanh nghiệp từ chỗ buộc phải chuyển đổi số sang dần chủ động thực hiện quá trình chuyển đổi như một xu hướng mới. Đại dịch COVID-19 là “cú hích mạnh” đối với cộng đồng doanh nghiệp, từ “miễn cưỡng” thực hiện xây dựng nền tảng công nghệ thông tin sang giai đoạn mới là “tích cực, chủ động” sử dụng nền tảng số như mũi nhọn để gia tăng khả năng cạnh tranh.
Theo kết quả khảo sát được Vietnam Report tiến hành trong tháng 11 về chi phí cho quá trình chuyển đổi số tại doanh nghiệp, có 94,7% doanh nghiệp đã và đang đầu tư cho lĩnh vực này và chỉ có 5,3% doanh nghiệp không thực hiện chuyển đổi số. Cụ thể, 44,0% doanh nghiệp chi dưới 1% của tổng doanh thu cho quá trình chuyển đổi số; 40,1% doanh nghiệp chi từ 1% đến dưới 5% tổng doanh thu; 9,3% doanh nghiệp sử dụng từ 5% đến 10% tổng doanh thu và 1,3% doanh nghiệp tập trung đầu tư trên 10% tổng doanh thu để thực hiện chuyển đổi số. Như vậy, có thể thấy mức độ chi cho chuyển đổi số tại doanh nghiệp có sự phân hóa nhất định, nhưng nhìn chung, các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu tham gia mạnh mẽ và sẵn sàng cho cuộc đua số hóa kể từ khi dịch COVID-19 xuất hiện và lan rộng.
Với các biện pháp giãn cách xã hội và để đảm bảo an toàn trong mùa dịch, đa phần các doanh nghiệp đều nhanh chóng triển khai ứng dụng chuyển đổi số trong điều hành hoạt động doanh nghiệp, hoạt động Marketing bán hàng, hoạt động quản lý nhân sự và tuyển dụng. Nhờ đó giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất và hiệu quả công việc và đặc biệt là vẫn đảm bảo hoạt động liên tục xuyên suốt trong giai đoạn dịch bùng phát.
Mặc dù vậy, trên thực tế trong quá trình tiếp cận và ứng dụng chuyển đổi số, các doanh nghiệp vẫn gặp phải những khó khăn nhất định. Kết quả khảo sát được Vietnam Report thực hiện đối với các doanh nghiệp VNR500 cho thấy 72,5% doanh nghiệp không đủ nguồn lực chất lượng cao; 64,7% doanh nghiệp thiếu công cụ đảm bảo an ninh mạng và bảo mật dữ liệu; 61,5% doanh nghiệp nhận định đối tác kinh doanh của họ chưa sẵn sàng hợp tác về các giải pháp số; 53,8% doanh nghiệp thiếu chiến lược xây dựng hệ thống công nghệ số hóa và sự hỗ trợ/lãnh đạo từ quản lý cấp cao và 52,9% doanh nghiệp gặp khó khăn do thiếu cơ sở hạ tầng công nghệ cơ bản.
Quá trình chuyển đổi số đòi hỏi trình độ cao cả về nhân lực và công nghệ. Do vậy, để triển khai thành công chuyển đổi số cần có những chiến lược đẩy mạnh công nghệ số hiệu quả và tìm kiếm nguồn nhân lực chất lượng cao có khả năng vận hành hệ thống công nghệ mới. Bên cạnh đó, chuyển đổi số phải bắt đầu từ tư duy và ý chí quyết tâm hành động của người lãnh đạo, sau đó mới từ từ thay đổi chiến lược kinh doanh, hình thức hoạt động của toàn doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã thành công trong tư duy truyền thống nên khá ngại thay đổi. Và khó khăn cuối cùng được các doanh nghiệp nêu ra là việc thiếu cơ sở hạ tầng công nghệ cơ bản. So với các nước trong khu vực, Việt Nam có chỉ số hạ tầng kết nối khá tốt, Chính phủ Việt Nam cũng xác định yếu tố cốt lõi giúp thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế toàn diện là đẩy mạnh về chuyển đổi số nên đã đưa ra những chính sách hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động này tại các doanh nghiệp. Vì vậy, kỳ vọng về sự chuyển biến tích cực và những khó khăn này sẽ dần được cải thiện trong tương lai là hoàn toàn có cơ sở.
Hy vọng sự chuyển mình kịp thời của cộng đồng doanh nghiệp sẽ tạo ra thế và lực mới, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước và nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực, như Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh: “Chuyển đổi số không phải là cuộc cách mạng của công nghệ mà là cuộc cách mạng về thể chế. Thể chế cần đi trước một bước và được điều chỉnh linh hoạt để chấp nhận những cái mới: công nghệ mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới, mô hình mới. Chỉ có đổi mới sáng tạo, Việt Nam mới thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình”.
Một số khuyến nghị chính sách cho cộng đồng doanh nghiệp trong thời gian tới
Mặc dù các doanh nghiệp đang phải chịu tác động tiêu cực trên nhiều khía cạnh đến từ nền kinh tế Việt Nam, tuy nhiên, tiềm năng tăng trưởng của thị trường vẫn rất khả quan. Thị trường mới nổi với gần 100 triệu dân, cơ cấu dân số trẻ và thu nhập đang ngày càng tăng thì kỳ vọng cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam sẽ cùng nhau vượt qua các khó khăn, thách thức trong giai đoạn đại dịch COVID-19 đang vẫn còn phức tạp. Các diễn biến tích cực trong phòng chống dịch bệnh và triển vọng về việc mở cửa nền kinh tế, nối lại giao thương với các quốc gia trên thế giới trong các tháng cuối năm 2021 - đầu năm 2022 đã mở ra những cơ hội lớn lao cho việc phát triển các ngành nghề trong tương lai nhưng cũng đồng thời xuất hiện những rủi ro, nguy cơ tiềm ẩn từ những hoạt động kinh tế do sự bất thường của dịch bệnh. Do đó, trong thời gian tới các doanh nghiệp của Việt Nam cần lưu ý một số vấn đề như sau:
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận