Quy mô GDP tăng thêm 25,4% nhưng... vẫn thấp so với thực tế
Tổng cục Thống kê (TCTK) vừa đánh giá lại GDP trong giai đoạn 2010- 2017 cho thấy GDP bình quân tăng thêm 25,4%/năm so với số liệu đã công bố. Tuy nhiên, sự điều chỉnh này vẫn thấp so với thực tế.
Với nhiều cơ sở khác nhau, nhiều nhà kinh tế cho rằng, số liệu thống kê về GDP bị bỏ sót, chưa được thống kê đầy đủ có thể lên tới 35% - 38% GDP hàng năm. Chính vì vậy, sự thay đổi điều chỉnh tăng thêm GDP ở mức 25,4% là vẫn thấp so với thực tế.
Với việc đánh giá lại GDP, nguồn vốn đầu tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam năm 2020 và các năm tiếp sau có thể sẽ có những bước tăng trưởng đột phá mới.
Con số thay đổi tăng thêm 25,4% GDP chỉ phản ánh số liệu thống kê nền kinh tế trong thời gian qua chưa chuẩn xác và cần điều chỉnh để có cơ sở hiểu đúng, nhận thức đầy đủ để hoạch định chính sách và chiến lược kinh tế cho giai đoạn tiếp theo.
Nhận thức đúng để có chiến lược
Việc nhận thức về con số 25,4% GDP và cách thức mà các nhà quản lý sử dụng số liệu này như thế nào trong việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới là điều quan trọng hơn cả. Cần nhận thức đúng để có chiến lược, chính sách phù hợp, tránh hành động chủ quan gây ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng đang rất tốt của nền kinh tế trong giai đoạn hiện tại.
Khi đánh giá lại GDP, các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp và người dân sẽ có cái nhìn chính xác về quy mô và cơ cấu củanềnkinh tế. Đây là cơ sở để các cơ quan quản lý Nhà nước có cơ sở hoạch định chính xác các nhiệm vụ kế hoạch và hoạch định các chính sách để phát triển kinh tế xã hội trong những năm tiếp theo. Tuy nhiên, việc thay đổi GDP là thống kê, hạch toán chưa đầy đủ nền kinh tế thời gian qua sẽ ảnh hưởng lớn tới các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô tính trên GDP. GDP tăng lên sẽ khiến cho một loạt cân đối vĩ mô của nền kinh tế thay đổi như tỷ lệ lạm phát, thâm hụt ngân sách nhà nước, thâm hụt cán cân thương mại…
Nếu xem xét tỷ lệ nợ công năm 2019 là 56,1% GDP, nợ Chính phủ là 49,2% GDP, nợ nước ngoài là 45,8%, thì theo GDP mới sẽ chỉ còn tương ứng 44,74%; 39, 24% và 36,52% GDP. Chỉ số giá tiêu dùng CPI năm 2018 là 3,54%, chỉ số lạm phát cơ bản là 1,48% tương ứng chỉ còn 2,82% và 1,18%; năm 2019 là 2,78% và 1,98% chỉ còn 2,21% và 1,58% GDP. Các chỉ số về nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài, các chỉ số về giá tiêu dùng CPI và chỉ số lạm phát cơ bản thấp đi rất đáng kể.
Đặc biệt, tỷ lệ huy động GDP vào Ngân sách nhà nước năm 2018 là 25,7% GDP, trong đó huy động từ thuế, phí là 21,1% GDP tương ứng sẽ còn 20,5% và 16,8%; năm 2019 tỷ lệ huy động GDP là 24,4% và từ thuế phí là 21% tương ứng với mức 19,46% và 16,8%. Bội chi NSNN năm 2018 và 2019 là 3,46% GDP và 3,54% GDP tương ứng sẽ còn 2,76% và 2,82% GDP. Những con số này cho thấy các chỉ số kinh tế vĩ mô của nền kinh tế những năm qua tốt hơn nhiều so với trước đây. Rõ ràng, tỷ lệ huy động GDP và tỷ lệ động viên từ thuế, phí vào NSNN tương đối thấp so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Các số liệu về đánh giá lại GDP của nền kinh tế cũng cho phép đánh giá chính xác sức mạnh và sự đóng góp của các khu vực kinh tế một cách chuẩn xác nhất. Bởi thông qua các cuộc Tổng điều tra, các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh trên toàn quốc chưa được thống kê đầy đủ hay bỏ sót đã được cập nhật. Trên cơ sở đó, vị trí, vai trò và các kết quả hoạt động của từng khu vực kinh tế sẽ được phân tích chính xác, tạo điều kiện cho việc hình thành các cơ chế chính sách hợp lý nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho từng khu vực kinh tế phát triển đúng tiềm năng và sức mạnh.
Hơn nữa, việc công bố kết quả tính toán GDP theo cách tiếp cận mới trên cơ sở cập nhật khung lý thuyết của Hệ thống tài khoản quốc gia 2008 (SNA 2008) đã cho phép Chính phủ và các tổ chức quốc tế có sự so sánh tương đồng giữa các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam và các nền kinh tế khác trên thế giới, góp phần nâng cao vị thế và vai trò của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.
Tạo sức hút mới cho các nhà đầu tư nước ngoài
Tuy nhiên, khi các chỉ số về nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài giảm thấp có thể tạo ra tình trạng “ru ngủ” các nhà quản lý nợ của quốc gia tăng cường vay nợ để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho các mục đích khác nhau, từ đó sẽ đẩy cao nợ công, nợ Chính phủ và nợ nước ngoài, tạo ra sự giảm sút quản lý, tình trạng đầu tư tràn lan, thiếu hiệu quả, gia tăng tình trạng thất thoát, tham nhũng. Các chỉ số về giá tiêu dùng CPI và chỉ số lạm phát cơ bản giảm thấp đi cũng dễ làm cơ chế quản lý giá cả, quản lý tài chính - tiền tệ, quản lý thị trường bị buông lỏng.
Điều này kết hợp với những biến động về tỷ giá hối đoái, về giá cả một số mặt hàng trong nền kinh tế khu vực và nền kinh tế thế giới có thể đẩy lạm phát quay trở lại, đẩy lùi các thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mặt khác, tỷ lệ huy động GDP và tỷ lệ động viên từ thuế, phí vào NSNN theo GDP tính lại tương đối thấp so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới cũng đòi hỏi phải đẩy mạnh công cuộc cải cách chính sách động viên nguồn thu và chính sách thuế, phí đối với nền kinh tế cho phù hợp với quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng và toàn diện của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới.
Tất nhiên, khi GDP tăng thêm, sức mạnh của các khu vực kinh tế thay đổi, GDP bình quân đầu người cũng tăng thêm trên danh nghĩa, khả năng chi tiêu của từng cá nhân cũng cần được các doanh nghiệp trong nền kinh tế đưa vào các biến số tính toán để hoạch định kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Đây có thể là cơ hội tiếp tục thúc đẩy gia tăng nguồn vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân vào nền kinh tế.
Với việc đánh giá lại GDP, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô thay đổi theo chiều hướng tốt lên sẽ là sức hút mới với các nhà đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam năm 2020 và các năm tiếp sau có thể sẽ có những bước tăng trưởng đột phá mới, góp phần tạo ra động lực mới cho sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận