menu
24hmoney
Install 24HMoneyTải App
copy link
Bùi Anh Thơ

Nguyên nhân TTCK Việt Nam sụt giảm mạnh?

TTCK Việt Nam sụt giảm mạnh trong năm 2022 là vì một số lý do chính như: Xu hướng chung về điều chỉnh giảm sau giai đoạn tăng nóng; Rủi ro, thách thức với kinh tế toàn cầu cũng như Việt Nam gia tăng...

TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo về thị trường chứng khoán Việt Nam với tiêu đề "Thị trường chứng khoán Việt Nam sụt giảm mạnh: Nguyên nhân, triển vọng và giải pháp".

Theo nhóm nghiên cứu, TTCK Việt Nam sụt giảm mạnh trong năm 2022 là vì một số lý do chính như:

- Xu hướng chung về điều chỉnh giảm sau giai đoạn tăng nóng

- Rủi ro, thách thức với kinh tế toàn cầu cũng như Việt Nam gia tăng

- Dòng tiền vào TTCK sụt giảm

- Áp lực giải chấp lớn

- Tâm lý, niềm tin của nhà đầu tư bị ảnh hưởng trong bối cảnh rủi ro gia tăng và nhất là sau những sai phạm trên thị trường bị khởi tố vừa qua

- Yếu tố tâm lý đám đông ảnh hưởng tới hành vi của nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân

Thứ nhất, thị trường đang bước vào giai đoạn điều chỉnh giảm mạnh sau hơn hai năm tăng khá nóng. Như đã phân tích, TTCK thế giới và Việt Nam đã trải qua giai đoạn tăng trưởng khá nóng trong 2 năm qua (từ quý 2/2020 đến hết quý 1/2022), thậm chí có thời điểm nhiều chỉ số chứng khoán lên mức cao nhất trong vòng 20-30 năm, chỉ số VNIndex cũng tạo lập mức đỉnh mới, cao nhất trong lịch sử (1528 điểm vào ngày 6/1/2022). Đà tăng trưởng này là kém bền vững khi chủ yếu dựa vào những yếu tố như dòng tiền rẻ từ các chính sách hỗ trợ trong đại dịch Covid-19, hiện tượng dùng đòn bẩy tài chính cao trong bối cảnh lãi suất thấp, tâm lý hưng phấn (có thời điểm trở nên "quá mức") của nhiều nhà đầu tư, một số lĩnh vực như CNTT, thương mại điện tử, dược phẩm, bất động sản (BĐS)…được hưởng lợi nhiều từ bối cảnh dịch bệnh. Ngoài ra, đối với Việt Nam, còn có những đặc điểm khác như mức độ rủi ro cao hơn do tâm lý đám đông, chất lượng nhà đầu tư còn thấp….như nêu dưới đây.

Do đó, khi bối cảnh kinh tế toàn cầu và trong nước thay đổi (lạm phát tăng cùng rủi ro suy thoái kinh tế toàn cầu), thị trường tài chính – tiền tệ toàn cầu có xu hướng thắt chặt, lãi suất và tỷ giá tăng, nhà đầu tư điều chỉnh lại đánh giá, kỳ vọng của mình, việc TTCK toàn cầu (trong đó có Việt Nam) điều chỉnh mạnh là tất yếu, nhất là từ tháng 4/2022 đến nay (Hình 1).

Thứ hai, rủi ro, thách thức gia tăng đối với kinh tế toàn cầu và Việt Nam. Theo đánh giá trong báo cáo gần đây của TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, khả năng suy thoái nhẹ kinh tế toàn cầu năm 2023 ở mức trên 50% (từ 55-60%), trong đó có những đối tác lớn của Việt Nam (như với Mỹ, khả năng suy thoái 60-70%, EU 50-60%...), khiến thị trường xuất khẩu, đầu tư đang bị thu hẹp, trong bối cảnh CPI toàn cầu năm tới còn ở mức cao (tăng khoảng 6,5%, dù giảm từ mức 8,8% năm 2022), trước khi trở lại quỹ đạo 4% năm 2024 và khoảng 2,5-3% sau đó.

Đối với nền kinh tế Việt Nam, như TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đã nêu trong một báo cáo đã công bố gần đây, nền kinh tế Việt Nam đối mặt với 5 rủi ro, thách thức chính đến cuối năm 2022 và năm 2023; đó là: (i) từ bên ngoài, NHTW các nước tiếp tục tăng lãi suất nhằm kiểm soát lạm phát, khiến mặt bằng lãi suất còn tăng, rủi ro tỷ giá, nghĩa vụ nợ tiếp tục tăng, áp lực thanh khoản lớn hơn; xung đột Nga – Ukraine còn ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng và giá nguyên vật liệu, năng lượng, lương thực – thực phẩm; Trung Quốc tăng trưởng thấp do mở cửa thận trọng và tập trung cơ cấu lại,…; khả năng suy thoái nhẹ kinh tế toàn cầu năm 2023 là hiện hữu, thu hẹp thị trường xuất khẩu, đầu tư và du lịch quốc tế; ở trong nước, (ii) áp lực lạm phát, lãi suất, tỷ giá tăng còn lớn trong bối cảnh dư địa chính sách tiền tệ bị thu hẹp, doanh nghiệp khó khăn về dòng tiền, nghĩa vụ trả nợ, thị trường đầu ra; (iii) giải ngân đầu tư công và các chương trình mục tiêu quốc gia, Chương trình phục hồi dù được thúc đẩy song còn chậm; (iv) nợ xấu tiềm ẩn tăng vẫn là thách thức trong bối cảnh triển vọng tăng trưởng kinh tế chậm lại, nhiều bộ phận doanh nghiệp còn khó khăn; (v) thị trường chứng khoán, bất động sản…đang điều chỉnh giảm và lành mạnh hóa. Theo đó, dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2023 sẽ chậm lại, khoảng 6-6,5% trong khi lạm phát còn xu hướng tăng (CPI tăng khoảng 4-4,5%).

Thứ ba, dòng tiền vào TTCK Việt Nam sụt giảm mạnh so với 2 năm trước. Hiện tượng này là do hầu hết những dòng tiền chính đổ vào TTCK Việt Nam thời gian qua đều giảm. Cụ thể, nhà đầu tư nước ngoài không còn được tiếp cận nguồn vốn giá rẻ dễ dàng như trước do các gói hỗ trợ đã chấm dứt, lãi suất tăng, thanh khoản thị trường tài chính toàn cầu eo hẹp hơn và hệ thống ngân hàng toàn cầu cũng thắt chặt điều kiện cho vay do e ngại rủi ro suy thoái, rủi ro tài chính toàn cầu tăng lên.

Ở trong nước, khối ngoại trong xu hướng bán ròng với số lượng lần lượt là 3.500 tỷ VND trong tháng 9 và 1.300 tỷ VND trong tháng 10/2022. Tính chung 10 tháng năm 2022, khối ngoại đã bán ròng hơn 1.000 tỷ VND (dù mức này còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực). Bên cạnh đó, dòng tiền của nhà đầu tư trong nước cũng bị hạn chế trong bối cảnh doanh nghiệp gặp khó khăn hơn trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng do năng lực tài chính suy giảm, hạn mức tăng trưởng tín dụng kiểm soát chặt chẽ; phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) khó khăn hơn sau những vụ việc vi phạm vừa qua và qui định luật pháp theo hướng chặt chẽ hơn. Ngoài ra, áp lực đáo hạn TPDN đang gia tăng (quý 4/2022 khoảng 85.000 tỷ VND, năm 2023 là 271.000 tỷ VND và năm 2024 khoảng 330.000 tỷ VND, theo Bộ Tài chính), việc mua lại TPDN diễn ra nhiều hơn (trong 10 tháng đầu năm 2022, đã có khoảng 170 nghìn tỷ VND được mua lại trước hạn, tăng 70% so với cùng kỳ), một phần là do các doanh nghiệp phát hành phải thực hiện nghĩa vụ này khi vi phạm phương án phát hành), cộng thêm giải ngân đầu tư công còn chậm, vòng quay vốn chậm, chi phí đầu vào tăng và doanh nghiệp nợ đọng lẫn nhau khiến một số doanh nghiệp phải: (i) tăng sử dụng vốn tự có, (ii) bán cổ phiếu để cân đối dòng tiền mua lại TPDN đã phát hành, để duy trì sản xuất, kinh doanh, bù đắp phần chi phí tăng thêm…v.v. Nhà đầu tư cá nhân cũng hạn chế vay ký quỹ để đầu tư chứng khoán (tính chung 9 tháng đầu năm 2022, dư nợ cho vay margin ở mức 153.000 tỷ VND, giảm 18% so với cuối năm 2021), một phần là do các TCTD kiểm soát cho vay, đầu tư chứng khoán chặt chẽ hơn và lãi suất cho vay ký quỹ tăng. Các dòng tiền khác như tiền lãi từ kinh doanh BĐS, đầu tư chứng khoán… cũng suy giảm. Điều này cũng phần nào giải thích lý do vì sao mà huy động vốn của hệ thống TCTD tăng khá thấp (khoảng 4,6% từ đầu năm đến nay so với mức tăng 5,5% cùng kỳ năm 2021 và 8% cùng kỳ năm 2020).

Thứ tư, áp lực giải chấp: theo Fiinpro, dư nợ cho vay ký quỹ của các CTCK tính đến cuối quý 3/2022 ở mức 165.000 tỷ VND (mặc dù giảm 18% so với cuối năm 2021, song vẫn là mức khá cao so với giai đoạn trước năm 2019). Với lãi suất tăng, nghĩa vụ trả nợ tăng, giá cổ phiếu giảm mạnh, một số nhà đầu tư sở hữu nhiều cổ phiếu đã phải bán giải chấp (hiện tượng force sell) để bù đắp phần sụt giảm của giá cổ phiếu dùng thế chấp cho các khoản vay ký quỹ, cũng là để hạ tỷ lệ nợ về mức an toàn theo quy định. Vòng xoáy giải chấp này đã diễn ra rất mạnh trong tháng 10 vừa qua.
Thứ năm, niềm tin của nhà đầu tư chứng khoán giảm mạnh. Bên cạnh những tác động tiêu cực từ bối cảnh rủi ro vĩ mô, kinh tế - tài chính như nêu trên; tâm lý nhà đầu tư còn chịu ảnh hưởng từ những vụ việc vi phạm pháp luật, khởi tố lãnh đạo của một số doanh nghiệp lớn, cùng các biện pháp chấn chỉnh TTCK và BĐS trong thời gian qua, cùng với một số tin đồn thất thiệt trên mạng xã hội…v.v. Không chỉ cổ phiếu của những doanh nghiệp vi phạm mà còn cả những cổ phiếu khác cũng bị bán tháo do tâm lý lo ngại, thận trọng lan rộng, dẫn đến nhiều giá cổ phiếu giảm sàn. Việc xử lý, giải quyết và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, rào cản pháp lý còn chậm cũng có tác động nhất định đến thị trường và niềm tin của nhà đầu tư.

Tâm lý thận trọng, ngại rủi ro gia tăng, dẫn đến nhiều nhà đầu tư lựa chọn những kênh đầu tư ít rủi ro hơn, an toàn hơn. Việc này dẫn đến hiện tượng thị trường "ngủ đông" với giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên trên sàn HOSE trong 6 tháng gần nhất chỉ đạt khoảng 15.000 tỷ VND, riêng tháng 10/2022 chỉ đạt 10.200 tỷ VND/phiên (giảm 40-50% so với mức bình quân hơn 21.000 tỷ VND/phiên năm 2021). Việc thanh khoản thị trường sụt giảm mạnh tạo ra vòng xoáy tác động tiêu cực đến tâm lý nhà đầu tư đang nắm giữ cổ phiếu (lo không bán được), sẵn sàng bán bằng mọi giá, từ đó kéo giá cổ phiếu tiếp tục giảm sâu.

Thứ sáu, tâm lý đám đông khá phổ biến trên thị trường. Tác động của tâm lý đám đông trên TTCK Việt Nam còn đặc biệt mạnh hơn so với những quốc gia khác do ba nguyên nhân chính sau. Một là, cơ cấu nhà đầu tư ở Việt Nam có điểm khác biệt khi nhà đầu tư cá nhân chiếm tới 80% giao dịch trên thị trường (trong khi tỉ lệ này ở những quốc gia phát triển chỉ khoảng 40–50%). Theo thống kê, nhà đầu tư cá nhân cũng chiếm tỷ trọng khá lớn, nắm giữ 33% lượng TPDN tại Việt Nam, trong khi ở Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc là 1%...). Đặc điểm của nhóm nhà đầu tư cá nhân là đưa ra quyết định đầu tư đôi khi không dựa trên lý trí hay phân tích tài chính kỹ lưỡng, mà chủ yếu theo đám đông, thậm chí là tin đồn. Hai là, tỷ lệ sử dụng đòn bẩy tài chính khá cao (như nêu trên), cùng với tâm lý đám đông, đã tạo ra vòng xoáy giá xuống – bán giải chấp, khiến thị trường càng chịu áp lực bán mạnh mỗi khi có sự điều chỉnh. Ba là, TTCK Việt Nam cũng đã xuất hiện tình trạng một số doanh nghiệp thổi giá dẫn đến bị khởi tố, khiến nhà đầu tư có tâm lý không coi trọng những đánh giá, phân tích khách quan, do vậy họ thường xuyên chuyển đổi trạng thái rất nhanh từ "hưng phấn quá mức" đến "bi quan quá đà" mỗi khi thị trường có điều chỉnh.
Theo dõi 24HMoney trên GoogleNews
Cảnh báo Nhà đầu tư lưu ý
24HMoney đã kiểm duyệt 24HMoney đã kiểm duyệt

Từ khóa (bấm vào mỗi từ khóa để xem bài cùng chủ đề)

Bạn có muốn trở thành VIP/Pro trên 24HMoney? Hãy liên hệ với chúng tôi SĐT/ Zalo: 0981 935 283.

Để truyền thông cho doanh nghiệp, vui lòng liên hệ SĐT/ Zalo: 0908 822 699.

Hòm thư: phuongpt@24hmoney.vn
Mã liên quan
Giá
Biểu đồ

1,268.66

-12.52 (-0.98%)

Biểu đồ mã VN-INDEX
Cơ quan chủ quản: Công ty TNHH 24HMoney. Địa chỉ: Tầng 5 - Toà nhà Geleximco - 36 Hoàng Cầu, P.Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Hà Nội. Giấy phép mạng xã hội số 203/GP-BTTTT do BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG cấp ngày 09/06/2023 (thay thế cho Giấy phép mạng xã hội số 103/GP-BTTTT cấp ngày 25/3/2019). Chịu trách nhiệm nội dung: Phạm Đình Bằng. Email: support@24hmoney.vn. Hotline: 038.509.6665. Liên hệ: 0908.822.699

Điều khoản và chính sách sử dụng



copy link
Quét mã QR để tải app 24HMoney - Giúp bạn đầu tư an toàn, hiệu quả