24HMoney
Install 24HMoneyTải App
copy link
menu
Nguyễn Ngọc Mai
24HMoney đã kiểm duyệt 24HMONEY đã kiểm duyệt

Kinh tế Việt Nam: Chuyển biến tích cực và quan ngại

Có thể nói kinh tế thế giới đang trong giai đoạn khó khăn, phức tạp, với 3 chữ “bất”: Bất ổn, bất định, bất thường, gắn với căng thẳng cạnh tranh, xung đột địa - chính trị, sự phân mảnh kinh tế, công nghệ, và thời tiết cực đoan do biến đổi khí hậu. Quá tr

Điều này cũng có thể thấy qua con số tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Năm 2020 và 2021, Việt Nam đạt mức tăng trưởng GDP rất thấp, tương ứng là 2,9% và 2,6%. Năm 2022, kinh tế phục hồi đáng kể, tăng trưởng đạt tới 8,0%, song nhiều khó khăn đã ập đến từ nửa cuối năm. Năm 2023, GDP của Việt Nam chỉ tăng gần 5,1%, thấp hơn nhiều mục tiêu đề ra là 6,0% - 6,5%.

Kinh tế Việt Nam bước vào năm 2024 với không ít câu hỏi. Phục hồi kinh tế có rõ không và còn quan ngại điềugì? Và nhìn dài hơn, triển vọng kinh tế sẽ ra sao?

Từ cuối năm 2023 đến tháng 3/2024 phần lớn các dự báo đều cho thấy sự phục hồi kinh tế Việt Nam năm 2024 sẽ tích cực hơn. Tăng trưởng có thể đạt trong khoảng từ trên 5,5% đến thậm chí tới 6,7%, và như vậy, cũng khá phù hợp với mục tiêu Quốc hội đã đề ra (6,0% - 6,5%).

Có nhiều lý do đằng sau các con số này. Thứ nhất, bối cảnh thế giới dù còn khó nhưng đã có những tín hiệu, những chuyển biến "dễ thở" hơn. Kinh tế thế giới năm 2024, theo nhiều dự báo, có mức tăng trưởng có thể cao hơn hoặc thấp hơn một chút so với năm 2023 (như theo IMF tháng 10/2023, đạt 2,9% năm 2024 và tháng 1/2024 đạt 3,1% so với 3,0% năm 2023), song khả năng rơi vào suy thoái là thấp, đặc biệt là tại các nền kinh tế lớn như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản - những đối tác thương mại, đầu tư hàng đầu của Việt Nam.

Tiếp nữa là các điều kiện tài chính tiền tệ. Lạm phát trên thế giới đã giảm đáng kể trong năm 2023 từ mức đỉnh cuối năm 2022 (trên 9% xuống 5,9% năm 2023), và được dự báo tiếp tục giảm trong năm 2024 (còn 4,8%; trong đó ở các nước phát triển là 2,6% và ở khu vực các nền kinh tế đang phát triển là 6,6%). Nhờ tín hiệu tíchcực này mà Ngân hàng Trung ương của những đồng tiền chủ chốt như USD, Euro dừng tăng lãi suất và khả năng sẽ giảm dần lãi suất từ nửa cuối năm 2024. Áp lực về lãi suất, tỷ giá lên chính sách tiền tệ của các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam, sẽ giảm, từ đó ít nhiều tạo thêm dư địa linh hoạt chính sách vĩ mô, nhất là chính sách tiền tệ, trong hỗ trợ cho quá trình phục hồi.

Còn Việt Nam, đã vượt được những áp lực vô cùng lớnvề tỷ giá, lãi suất, lạm phát, thanh khoản cùng "cơn sangchấn" của thị trường tài chính nửa cuối năm 2022, về cơ bản vẫn giữ được ổn định kinh tế vĩ mô. Lạm phát (theo chỉ số CPI) tương đối thấp, năm 2023 tăng 3,3%; quí I/2024 tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2023. Năm 2023, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã 4 lần hạ lãi suất và cam kết giữ nguyên chính sách lãi suất hiện tại ít nhất đến giữa năm2024; cùng với đó lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại cũng giảm đáng kể (cùng đòi hỏi các ngân hàng thương mại giảm tiếp lãi suất cho vay).

Nhìn chung, thị trường tài chính, tiền tệ hoạt động bình thường; riêng thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã có chuyển biến ổn hơn dù chưa được như kỳ vọng.

Những yếu tố tích cực hơn cũng có thể thấy trong kinh tế thực. GDP quý I/2024 ước tăng 5,7% so với 3,3% quí I/2023, cao hơn khoảng tăng trưởng dự tính cho điều hành của Chính phủ. Với con số 5,7% cùng yếu tố chu kỳ theo quí, các dự báo đã thiên hơn về kịch bản tăng trưởng trên 6,0% của Việt Nam năm 2024.

Công nghiệp chế biến chế tạo đã xuất hiện dấu hiệu phục hồi; cụ thể, từ mức tăng trưởng -0,4% quí I/2023 lên3,6% cả năm 2023; riêng 3 tháng đầu năm 2024, tăng gần7,0%, quay trở lại là một động lực tăng trưởng chủ chốt.

Chỉ số PMI gần như tất cả các tháng năm 2023 (trừ tháng2 và tháng 8) đều thấp hơn 50, nhưng 3 tháng đầu năm 2024 đều đã ở mức 50 và trên 50. Đi cùng đó là xuất khẩu hàng hóa. Từ mức tăng trưởng âm rất lớn (-11,9% quíI/2023) còn -4,4% cho cả năm 2023 và trong 3 tháng đầu năm 2024 tăng tới 17,0% (nhập khẩu cũng tăng mạnh, tới 13,9% và cán cân thương mại hàng hóa thăng dư 8,1tỷ USD).

Bên cạnh yếu tố sản xuất - xuất khẩu, đầu tư nước ngoài FDI và đầu tư công cũng đã có chuyển biến đáng chú ý. Cụ thể, tiếp tục đà tăng năm 2023, FDI tăng mạnh trong quí I/2024. Năm 2023 cam kết và giải ngân FDI đạt 36,6 tỷ USD, tăng 32,1% và 23,2 tỷ USD, tăng 3,5%; các con số tương ứng quý I/2024 là 6,2 tỷ USD, tăng 13,4% và 4,6 tỷ USD, tăng 7,1% so cùng kỳ năm trước (mức cao nhất ba tháng đầu năm của các năm từ 2020 đến nay).

Năm 2023, tỷ lệ giải ngân đầu tư công đạt con số khá bất ngờ: 676.000 tỷ VNĐ, bằng 95% kế hoạch, cao hơn 146.000 tỷ VNĐ so năm 2022. Đến năm 2024, giải ngân vốn đầu tư công được thúc đẩy ngay từ những tháng đầu năm; quí I/2024 đạt 162,7 nghìn tỷ VNĐ, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước.

Bức tranh kinh tế Việt Nam có có xu hướng chuyển biến tích cực hơn, có những điểm sáng, những điểm khó bớt khó hơn. Song cũng cần phải nói rằng, khó khăn còn nhiều, và nổi lên là vấn đề niềm tin thị trường, những quan ngại về đầu tư tư nhân, và tiêu dùng xã hội.

Đầu tư tư nhân có xu hướng chững lại; cả năm 2023 và quí I/2024 chỉ tăng (danh nghĩa) tương ứng 2,4% và 4,2%.

Không chỉ vậy, tăng trưởng tín dụng quí I/2024 rất thấp, chỉ 0,26% (2 tháng đầu năm là -1,1%). Hơn nữa, thị trường bất động sản dù có "nhích" cả về giao dịch và thanh khoản, nhưng nhìn chung vẫn khó và chưa phục hồi rõ.

Đặc biệt, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng cao trong năm 2023 (dù thấp hơn nhiều số gia nhập thị trường), tới 172,6 nghìn, tăng 20,5%; bình quân một tháng có 14,4 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Tình hình quí I/2024 còn đáng báo động hơn; có tới 74 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường (gần 24,7nghìn/tháng) so với 59,9 nghìn doanh nghiệp gia nhập thị trường (gần 20,0 nghìn/tháng).

Một động lực duy trì đà tăng trưởng trong nhiều năm là tiêu dùng, có mức tăng ngày càng giảm. Cả năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, đã loại trừ yếu tố giá, tăng 7,1%, giảm đáng kể so với mức tăng 10,4% quý I/2023; con số này 3 tháng đầu năm 2024 còn 5,1%. Lưu ý rằng, mức tăng tiêu dùng đạt được cũng phần nào đến từ chi tiêu của nguồn du khách nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh (12,6 triệu năm 2023 và 4,6 triệu quí I/2024).

Có nhiều lý do đằng sau vấn đề niềm tin thị trường, qua câu chuyện đầu tư tư nhân, sự sống còn của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa, và tiêu dùng.

Một nền kinh tế mở như Việt Nam rất nhạy cảm với tình hình quốc tế và kinh tế thế giới, hiện lại gắn với ba chữ "bất": bất ổn, bất thường, bất định. Thứ nữa là những vấn đề nội tại của nền kinh tế, điển hình là những xáo động trên thị trường tài chính - tiền tệ. Việt Nam về cơ bản vẫn giữ được ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, nhìn rộng hơn, kinh tế vĩ mô vẫn đang đối diện với không ít thách thức. Ví dụ như Việt Nam vừa phải duy trì lạm phát tương đối thấp, lãi suất thấp, vừa hạn chế sự "nhảy nhót" tỷ giá và đảm bảo cân đối cán cân thanh toán quốc tế. Hay câu chuyện tăng cung tiền, tăng cung tín dụng, nhưng không để nợ xấu vượt khỏi trần an toàn (thực tế nợ xấu từ năm 2023 đến nay vẫn có xu hướng tăng). Trong khi nhiều ngân hàng đạt chuẩn Basel II, thì vẫn còn đó các ngân hàng chưa đủ lành mạnh, thậm chí thuộc diện kiểm soát đặc biệt. Chúng ta đã có chương trình tái cấu trúc ngân hàng từ năm 2012, và đến nay vẫn phải có một chương trình như vậy cho giai đoạn 2021 - 2025; đó là cả một quá trình gian nan đòi hỏi rất nhiều nỗ lực.

Niềm tin phục hồi liên quan đến những chỉ báo kinh tế trong nước và thế giới. Nhưng sâu xa và quan trọng hơn, nó tùy thuộc vào nỗ lực chính sách và cải cách của chính Việt Nam.

Chúng ta đã và đang thực thi các nhóm chính sách khác nhau. Trước hết là nhóm chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, giữ lạm phát ở mức tương đối thấp cùng nỗ lực tạo sự lành mạnh trong vận hành của thị trường tài chính, hệ thống ngân hàng và thị trường bất động sản (tháo gỡ vướng mắc pháp lý, quy trình thủ tục; hỗ trợ tài chính, tiền tệ; tái cấu trúc thị trường và doanh nghiệp).

Thứ nữa là nhóm chính sách đang tiếp tục được thực hiện là kích cầu (tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu) cùng hỗ trợ doanh nghiệp qua chính sách tài khóa, tiền tệ (nhưhoãn, giảm thuế, phí; khoanh nợ, giảm lãi suất cho vayvà các gói ưu đãi tín dụng).Nhìn xa hơn, đó là việc tạo ra các nền tảng hỗ trợ và đảm bảo sự phát triển nhanh, bền vững cho đất nước.

Cần lưu ý rằng, dù mục tiêu tăng trưởng năm 2024 là khả thi, thì việc đạt được mục tiêu tăng trưởng trung bình 6,5 - 7% trong cả giai đoạn 2021 - 2025 vẫn rất khó khăn (tăng trưởng 2024 và 2025 phải trên 8%/năm - con số rất cao trong điều kiện hiện nay). Đó là chưa nói tới khát vọng trở thành nền kinh tế có thu nhập trung bình cao, công nghiệp hiện đại vào năm 2030 và nước phát triểnvào năm 2045.

Kinh tế Việt Nam: Chuyển biến tích cực và quan ngại

Niềm tin phục hồi liên quan đến những chỉ báo kinh tế trong nước và thế giới. Nhưng sâu xa và quan trọng hơn, nó tùy thuộc vào nỗ lực chính sách và cải cách của chính Việt Nam

Để kinh tế Việt Nam "cất cánh", vượt khó trước mắt làchưa đủ, cần có chính sách dài hạn hơn, nỗ lực cải cách triệt để hơn, hành động quyết liệt hơn. Đây cũng là cách thức để trong tương lai bớt đi những nhọc nhằn phải đối mặt trong ngắn hạn. Đó là tầm nhìn chiến lược (gắn với quy hoạch tổng thể quốc gia, vùng, địa phương); là những đột phá về thể chế (hoàn thiện khung khổ pháp lý truyền thống và theo đòi hỏi mới, và quản trị nhà nước); là phát triển hạ tầng chất lượng (cả hạ tầng cứng và mềm); là phát triển nguồn nhân lực có chất lượng (cả đào tạo, thu hút và sử dụng tài năng; cả lao động kỹ năngvà kỹ sư, nhất là đối với những ngành dần tạo bước nhảy công nghệ cho Việt Nam).

Cùng với ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường khả năng chống chịu, cần đẩy mạnh công cuộc tái cấu trúc kinh tế, hướng tới khu vực doanh nghiệp nhà nước, đầu tư công, hệ thống tài chính - ngân hàng và phát triển khu vực tư nhân (cả doanh nghiệp nhỏ và vừa cùng hỗ trợ thích hợp các doanh nghiệp lớn).

Điểm nữa là việc chuyển đổi cách thức tăng trưởng, dựa nhiều hơn vào tăng năng suất, công nghệ và đổi mới sáng tạo, bắt nhịp với những xu hướng mới, đòi hỏi "xanh" hơn, "số" hơn, và cả sự dịch chuyển các chuỗi cung ứng toàn cầu gắn với lựa chọn đầu tư của các tập đoàn lớn trên thế giới.

Chúng ta có khát vọng thì cần phải có niềm tin. Trong trao đổi tại một số hội thảo, khi trao đổi với các chuyên gia trong và ngoài nước về một số mục tiêu phát triển trong dài hạn của Việt Nam, tôi thường hỏi: "Việt Nam khát vọng thế, ông/bà tin Việt Nam có thể làm đượckhông?". Và câu trả lời tôi luôn nhận được là: "Việt Nam có thể, nhưng có điều kiện".

Thời gian không chờ đợi, Trong lịch sử cải cách, Đổi mới của Việt Nam, cứ lúc khó thì lại có những bước chuyển mình, đột phá. Mặc dù thời gian còn lại tương đối ngắn, Việt Nam vẫn hoàn toàn có thể đạt được mục tiêu khi biết nắm bắt cơ hội, cải cách và hành động quyết liệt.

Theo dõi 24HMoney trên GoogleNews

Từ khóa liên quan

Bấm vào mỗi từ khóa để xem bài cùng chủ đề

Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?

Liên hệ 24HMONEY ngay

Cảnh báo Nhà đầu tư lưu ý
Cảnh báo
Cơ quan chủ quản: Công ty TNHH 24HMoney. Địa chỉ: Tầng 5 - Toà nhà Geleximco - 36 Hoàng Cầu, P.Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Hà Nội. Giấy phép mạng xã hội số 203/GP-BTTTT do BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG cấp ngày 09/06/2023 (thay thế cho Giấy phép mạng xã hội số 103/GP-BTTTT cấp ngày 25/3/2019). Chịu trách nhiệm nội dung: Phạm Đình Bằng. Email: support@24hmoney.vn. Hotline: 038.509.6665. Liên hệ: 0908.822.699

Điều khoản và chính sách sử dụng



copy link
Quét mã QR để tải app 24HMoney - Giúp bạn đầu tư an toàn, hiệu quả