Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU - Bài 1: Đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng
Chiều 12/2, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ Đầu tư Việt Nam - EU (EVIPA) đã được Nghị viện châu Âu (EP) bỏ phiếu thông qua.
Đây là cơ hội lớn thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ, rộng lớn hơn về kinh tế, thương mại của Việt Nam và EU cũng như đáp ứng nhu cầu của người dân và doanh nghiệp hai bên.
EVFTA là một Hiệp định toàn diện, chất lượng cao và đảm bảo cân bằng lợi ích cho cả Việt Nam và EU. Khi thực thi, EVFTA sẽ là cú hích rất lớn cho xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng nông, thủy sản cũng như những mặt hàng Việt Nam vốn có nhiều lợi thế cạnh tranh.
Thông tấn xã Việt Nam giới thiệu chùm 4 bài phân tích, đánh giá tổng hợp xung quanh Hiệp định này từ các chuyên gia, nhà quản lý và doanh nghiệp về lợi thế, tác động đối với nền kinh tế của Việt Nam; đồng thời, đưa ra những lưu ý giúp doanh nghiệp xuất khẩu tận dụng cơ hội để tiếp cận thị trường châu Âu.
Sau quá trình đàm phán kéo dài 6 năm, Hiệp định EVFTA và EVIPA đã được ký kết tại Hà Nội ngày 30/6/2019 và ngày 12/2, hai Hiệp định này đã được Nghị viện châu Âu bỏ phiếu thông qua. Đây là cơ hội lớn để doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập sâu vào thị trường EU với 508 triệu dân và tổng sản phẩm nội địa (GDP) khoảng 18.000 tỷ USD. Tuy nhiên, để tận dụng được lợi thế của hai Hiệp định này, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần nâng cao tiêu chuẩn chất lượng và đáp ứng các yêu cầu ngặt nghèo của thị trường khó tính nhưng đầy tiềm năng này.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết, Hiệp định EVFTA và EVIPA được Lãnh đạo Việt Nam và EU tuyên bố kết thúc đàm phán vào ngày 2 tháng 12 năm 2015. Ngày 30 tháng 6 năm 2019, Hiệp định EVFTA được hai bên ký kết tại Hà Nội. Đến nay, hai Hiệp định này đã được Nghị viện châu Âu (EP) bỏ phiếu thông qua.
EVFTA là một Hiệp định toàn diện, chất lượng cao và đảm bảo cân bằng lợi ích cho cả Việt Nam và EU; trong đó, cũng đã lưu ý đến chênh lệch về trình độ phát triển giữa hai bên. Nếu đưa vào thực thi, Hiệp định này sẽ là cú hích rất lớn cho xuất khẩu của Việt Nam, giúp đa dạng hóa thị trường và mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng nông, thủy sản cũng như những mặt hàng Việt Nam vốn có nhiều lợi thế cạnh tranh.
Hiệp định gồm 17 Chương, 2 Nghị định thư và một số biên bản ghi nhớ kèm theo với các nội dung chính là thương mại hàng hóa (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường); quy tắc xuất xứ; hải quan và thuận lợi hóa thương mại; các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS); các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT); thương mại dịch vụ (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị trường); phòng vệ thương mại; cạnh tranh; doanh nghiệp nhà nước; mua sắm của Chính phủ; sở hữu trí tuệ; thương mại và phát triển bền vững; hợp tác và xây dựng năng lực; pháp lý-thể chế.
Khi tham gia vào các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, Việt Nam có nhiều cơ hội về chính trị, an ninh quốc gia và chiến lược đối ngoại. Theo đó, tham gia các FTA thế hệ mới sẽ thể hiện mạnh mẽ chủ trương chủ động hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước ta; khẳng định vai trò và vị thế địa - chính trị quan trọng của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á cũng như châu Á - Thái Bình Dương; thực sự nâng cao vị thế của Việt Nam trong khối ASEAN, trong khu vực cũng như trên trường quốc tế. Đặc biệt, là trong bối cảnh tình hình chính trị - an ninh thế giới và khu vực đang thay đổi nhanh chóng và chủ nghĩa bảo hộ ngày càng leo thang.
Cũng theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, đối với Hiệp định EVFTA, hiện tại, xuất khẩu của Việt Nam mới đạt gần 1,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của EU. Trong số đó, chỉ khoảng hơn 42% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam được hưởng mức thuế 0% (kể cả các mặt hàng thuộc Chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập GSP). Đây là con số còn rất khiêm tốn so với tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam cũng như quy mô thị trường của EU. Với cam kết cắt giảm thuế trong Hiệp định EVFTA và đặc thù là cơ cấu thương mại bổ sung mạnh mẽ, tiềm năng để hai bên phát triển hơn nữa quan hệ kinh tế-thương mại sau khi có FTA là rất lớn.
Bộ Công Thương cho biết, trong năm 2019, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU đạt trên 56,45 tỷ USD, tăng 1,11% so với năm 2018; trong đó, xuất khẩu đạt trên 41,54 tỷ USD, giảm 0,81% và nhập khẩu đạt 14,90 tỷ USD, tăng 6,84%. Các thị trường có giá trị xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD trong năm 2019 lần lượt là Hà Lan, Đức, Anh, Pháp, Italy, Áo, Tây Ban Nha, Bỉ, Ba Lan và Thụy Điển.
Theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hiệp định EVFTA sẽ giúp kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng thêm khoảng 20% vào năm 2020; 42,7% vào năm 2025 và 44,37% vào năm 2030 so với không có Hiệp định. Đồng thời, kim ngạch nhập khẩu từ EU cũng tăng nhưng với tốc độ thấp hơn xuất khẩu. Cụ thể, khoảng 15,28% vào năm 2020; 33,06% vào năm 2025 và 36,7% vào năm 2030.
Về mặt vĩ mô, EVFTA góp phần làm GDP của Việt Nam tăng thêm ở mức bình quân từ 2,18-3,25% (trong giai đoạn 2019-2023); từ 4,57-5,30% (giai đoạn 2024-2028) và từ 7,07-7,72% (giai đoạn 2029-2033).
PGS.TS Phạm Tất Thắng, Nghiên cứu viên cao cấp, Viện Nghiên cứu thương mại (Bộ Công Thương) cho hay, đối với Hiệp định EVFTA, Việt Nam cũng đặt rất nhiều hy vọng, bởi thị trường châu Âu là một thị trường lớn chiếm 1/4 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. 1/4 là xét về lượng, còn vật chất thì 1/4 đó là những mặt hàng tinh tuý nhất của Việt Nam đạt được tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường châu Âu. Những mặt hàng xuất khẩu nào đã vào được thị trường châu Âu thì có thể bán được khắp thế giới. Điều này phản ánh độ lớn và độ trưởng thành của hàng hoá Việt Nam.
Khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực, thuế suất và những hàng rào thuế quan được dỡ bỏ gần như hoàn toàn và hai bên dành cho nhau những ưu đãi. Tuy nhiên, để hàng Việt Nam xuất vào thị trường châu Âu nhiều hơn, các doanh nghiệp Việt Nam phải tự vươn lên, tự vượt qua chính mình và vượt qua những rào cản của thị trường châu Âu đặt ra. Một triệu USD vào được thị trường châu Âu sẽ không đơn thuần là 1 triệu USD mà giá trị xuất khẩu này còn phản ánh độ lớn lên của nền kinh tế Việt Nam.
Vượt qua thách thức
Theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, việc thực thi Hiệp định EVFTA cũng đặt ra không ít thách thức, đặc biệt là với Việt Nam là nền kinh tế có trình độ phát triển thấp nhất so với các nước trong khu vực đã ký FTA với EU. Do đó, sức ép cạnh tranh là vấn đề đầu tiên đối với nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, cạnh tranh luôn có tính hai mặt rõ ràng. Một mặt, cạnh tranh sẽ rất tiêu cực đối với các doanh nghiệp yếu kém, nhất là các doanh nghiệp vẫn dựa vào sự bao cấp của Nhà nước, các doanh nghiệp có công nghệ sản xuất và kinh doanh lạc hậu.
Mặt khác, cạnh tranh mang lại động lực cho các doanh nghiệp liên tục đổi mới và sáng tạo, đồng thời tạo ra thêm nhiều sự lựa chọn cho người tiêu dùng. Nhưng quan trọng hơn cả, cần nhìn nhận đây là con đường mà sớm hay muộn cũng phải đi qua để đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công, theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng và hiệu quả của tăng trưởng kinh tế. Cùng đó, các cam kết nhiều lĩnh vực mới trong Hiệp định EVFTA cũng đặt ra yêu cầu điều chỉnh, sửa đổi các quy định pháp luật.
Thị trường EU là một trong những thị trường có đòi hỏi cao nhất trên thế giới. Việc bước qua được các rào cản thuế quan không có nghĩa là hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam sẽ được thị trường EU chấp nhận. Hơn nữa, EU có nhiều quy định không chỉ liên quan đến tiêu chuẩn sản phẩm mà cả đối với quy trình sản xuất ra sản phẩm đó. Hay các đòi hỏi về lao động, môi trường của EU cũng thuộc hàng cao nhất thế giới. Chính vì vậy, doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam phải vượt qua được các thách thức, khai thác được các cơ hội do Hiệp định EVFTA đem lại.
PGS.TS Phạm Tất Thắng bày tỏ, với Hiệp định EVFTA thì những thách thức; hàng rào kỹ thuật trong thương mại ở thị trường EU rất khắt khe. Thậm chí có những hàng rào kỹ thuật tưởng như không thể vượt qua được, như: xử lý chất thải điện tử, rác thải điện tử...
Yêu cầu khắt khe trong việc đưa được hàng hoá và dịch vụ vào thị trường EU đòi hỏi các doanh nghiệp phải thay đổi lại cách quản lý, thay đổi lại hệ thống quản lý, đánh giá chất lượng; thay đổi các quy định các hàng rào trong thương mại gọi là quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi trường, bảo vệ động vật hoang dã, an sinh xã hội, bảo vệ tầng ozon, bảo vệ không sử dụng những chất thải, xả rác ra đại dương… đóng góp vào chống biến đổi khí hậu toàn cầu. Những vấn đề này có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Do hàng rào kỹ thuật dày đặc và khắt khe, để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị trường EU, trước hết, các doanh nghiệp phải nắm được các hàng rào kỹ thuật này đối với từng hàng hoá, từng thị trường, từng nước. Theo PGS.TS Phạm Tất Thắng, doanh nghiệp nên nhớ rằng, ở EU rất hay cập nhật hàng rào kỹ thuật, tháng này như thế này nhưng tháng sau họ có thể cập nhật thêm những tiêu chí mới. Do vậy, việc cập nhật hàng rào kỹ thuật cho từng mặt hàng ở EU là vô cùng quan trọng. Từ đó, vai trò của Hiệp hội, thông tin, cơ quan thông tin phải thu thập và nắm bắt thông tin là rất quan trọng.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực của Việt Nam cần phải học tiếng Anh, Đức, Pháp, ngoài ra còn một số tiếng nếu doanh nghiệp biết được của từng quốc gia trong EU thì ngoài việc đưa hàng sang EU còn có khả năng đưa hàng vào một quốc gia cụ thể nào đó thuộc EU. Việc tận dụng cơ hội để đưa sang thị trường EU, các doanh nghiệp tuỳ theo mặt hàng, quy mô của doanh nghiệp để nhắm tới một thị trường cụ thể, một quốc gia cụ thể thuộc 27 nước trong Liên minh châu Âu.
Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam nên lưu ý, hệ thống tham tán thương mại của Việt Nam ở EU tương đối dày đặc và các tham tán này là những người có kinh nghiệm và có tâm huyết. Do vậy, các doanh nghiệp cần phải sớm xây dựng được mối quan hệ tốt với các tham tán thương mại; đồng thời, coi họ như là những người đi tiên phong, nằm vùng, hỗ trợ giúp cho doanh nghiệp nắm được thông tin, nhu cầu, lý lịch thông tin của doanh nghiệp; cách thức làm ăn của từng quốc gia và phạm vi rộng cả EU.
Bài 2: Xúc tiến thương mại chuyên sâu để tận dụng cơ hội
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận