Chuyên gia kinh doanh quốc tế tại Đại học RMIT nói về định vị doanh nghiệp Việt trong RCEP
Trao đổi với TG&VN, Tiến sĩ John Walsh đã chỉ ra các cơ hội của doanh nghiệp trong nước khi Việt Nam tham gia RCEP.
Ông đánh giá như thế nào về tác động của Hiệp định RCEP đối với khu vực châu Á?
Hiệp định RCEP vừa được ký kết với sự tham gia của 15 nước, trong khu vực có tới hơn 2,2 tỷ người, chiếm gần 30% GDP của thế giới. Quy mô của thỏa thuận lẽ ra còn lớn hơn nếu Ấn Độ không rút khỏi đàm phán ở giai đoạn cuối, còn lại 10 quốc gia ASEAN cùng Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand bước vào lễ ký kết.
Đáng chú ý, đây là thỏa thuận đầu tiên có mặt ba quốc gia lớn tại châu Á là Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc. Về mặt địa chính trị, khả năng đóng góp của RCEP vào việc duy trì quan hệ hòa bình ở Biển Đông rất đáng được hoan nghênh.
Tuy nhiên, thỏa thuận này còn đem lại nhiều hơn thế. RCEP kết nối khu vực Đông Nam Á với các nước láng giềng lớn mạnh và có tầm ảnh hưởng nhất khu vực. FTA này không chỉ bao hàm các sản phẩm nông nghiệp hay các mặt hàng sản xuất và lắp ráp, mà còn cả các dịch vụ và lĩnh vực thương mại điện tử, vốn dĩ hết sức hóc búa. Việc đàm phán một thỏa thuận như vậy rất phức tạp và không có gì đáng ngạc nhiên khi RCEP phải mất tám năm mới đi đến ký kết.
RCEP sẽ tiếp nối các FTA mà ASEAN đang triển khai hiện nay, đồng thời mở rộng nguyên tắc đối xử tối huệ quốc trên phạm vi 15 quốc gia. Nguyên tắc này là cơ sở đàm phán được Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ủng hộ và quy định rằng mỗi quốc gia thành viên phải bảo đảm dành chế độ ưu đãi thuận lợi cho tất cả các quốc gia đối tác như nhau.
Những tác động thương mại từ RCEP khá dễ dự đoán: hàng hóa, dịch vụ có khả năng cạnh tranh quốc tế sẽ được hoan nghênh trên toàn khu vực RCEP, đồng thời sẽ góp phần nâng cao sự thịnh vượng và số lượng việc làm trong khu vực. Tuy nhiên, những sản phẩm không thể cạnh tranh được sẽ buộc phải cải thiện hoặc bị đào thải khỏi thị trường. Như thường lệ, sẽ có người thắng, kẻ thua và vai trò của chính phủ là hỗ trợ những bên thua cuộc.
Nhiều người cho rằng Trung Quốc sẽ có lợi nhiều nhất khi ký RCEP?
Đúng là Trung Quốc có thể sẽ được hưởng lợi nhiều hơn các nước khác về mặt tuyệt đối, nhưng xét về mặt tương đối thì các nước như Việt Nam trên thực tế sẽ được lợi nhiều hơn.
Các thỏa thuận như RCEP về bản chất là đôi bên cùng có lợi nhưng điều đó không có nghĩa là tất cả các đối tác sẽ được hưởng lợi như nhau. Các quốc gia sẽ hưởng lợi trong những lĩnh vực mà họ có thế mạnh nhưng có thể lại thua thiệt ở lĩnh vực khác. Trong khi đó, sự cần thiết phải đưa ra các điều khoản ngoại lệ và miễn trừ để bảo vệ một số quốc gia cũng là lý do vì sao quá trình đàm phán các thỏa thuận lại mất nhiều thời gian như vậy.
Có thể còn có người băn khoăn: “Liệu Trung Quốc có phải là ‘đạo diễn’ của cả quá trình hình thành Hiệp định không?”. Câu trả lời của tôi là không. RCEP được xây dựng dựa trên các thỏa thuận mà ASEAN đã và đang thực hiện, và mở rộng chúng về mặt địa lý. Thực tế, Trung Quốc đang chấp nhận làm theo cách các nước láng giềng phía Nam đã và đang cấu trúc các mô hình thương mại và đầu tư của họ.
Liệu dòng vốn đầu tư và chuỗi cung ứng của khu vực sẽ thay đổi?
Chắc chắn đầu tư từ Trung Quốc vào Việt Nam sẽ tăng nhờ RCEP, nhưng dòng vốn đầu tư từ các nước khác tham gia ký kết thỏa thuận cũng sẽ tăng lên. Đồng thời, các tập đoàn Việt Nam có thể tiếp bước những doanh nghiệp tiên phong như Viettel hay Vinamilk để giương cao ngọn cờ Việt Nam ra thị trường nước ngoài.
Hơn nữa, việc giảm bớt các rào cản nội bộ và thuế quan trong khuôn khổ RCEP sẽ thúc đẩy các hàng hóa phức tạp di chuyển xuyên biên giới, đồng thời nâng cao sức mạnh của các chuỗi giá trị khu vực. Theo đó, các khâu sản xuất khác nhau của cùng một mặt hàng có thể diễn ra ở Việt Nam, Thái Lan và Campuchia.
Như trên ông nói, về mặt tương đối, Việt Nam sẽ được hưởng lợi khi tham gia RCEP?
Những thỏa thuận thúc đẩy thương mại điện tử và đầu tư trong RCEP sẽ giúp đẩy mạnh số hóa nền kinh tế Việt Nam và chuyển dịch sang xã hội không tiền mặt.
Tôi hy vọng khu vực tư nhân của Việt Nam cũng sẽ thích ứng với những thay đổi bằng cách tăng cường số hóa trong chính doanh nghiệp của họ, để cả người dân và các doanh nghiệp, tổ chức đều có thể cùng hưởng lợi.
Ngoài ra, việc gia tăng đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực năng lượng tái tạo của Việt Nam cần được kết hợp với những sáng kiến của chính phủ nhằm đa dạng hóa nguồn và quy mô sản xuất năng lượng cho lưới điện quốc gia. Đây là những thay đổi vốn dĩ vẫn có thể đã diễn ra nhưng sẽ thuận lợi hơn khi RCEP được thực thi.
Vậy ông có lời khuyên gì dành cho các doanh nghiệp Việt Nam để tận dụng cơ hội từ RCEP, đồng thời hạn chế được những thách thức có thể gặp phải?
Cơ hội sẽ đến với doanh nghiệp Việt ở cả trong và ngoài nước. Muốn nắm bắt cơ hội ở nước ngoài, doanh nghiệp cần nghiên cứu thị trường để hiểu rõ các cơ hội hiện có là gì và làm thế nào để tiếp cận chúng. Đa số các chính quyền địa phương sẽ có dịch vụ hỗ trợ cho những nghiên cứu như vậy và các cơ quan phát triển ở thị trường đích đến (chẳng hạn JETRO ở Nhật Bản) cũng có thể giúp đỡ.
Ở trong nước, các doanh nghiệp nhỏ nên nỗ lực hợp tác hiệu quả hơn với các nhà đầu tư nước ngoài, cũng như tìm cách cung cấp sản phẩm và dịch vụ đáp ứng được yêu cầu chất lượng ổn định mà nhà đầu tư đưa ra. Họ có thể thiết lập quan hệ đối tác hay xây dựng mạng lưới với các doanh nghiệp đồng chí hướng khác để cùng phát triển và chia sẻ các cơ hội học hỏi, đào tạo.
Dù hoạt động trong hay ngoài nước thì một khoản đầu tư không thể thiếu trong giai đoạn bình thường mới là vào số hóa, ít nhất là phải số hóa hoạt động truyền thông và các chức năng vận hành thiết yếu. Đó là vì các doanh nghiệp sẽ không thể quay lại cách hoạt động trước thời đại dịch, thay vào đó, nhu cầu hạn chế tối đa giao tiếp trực tiếp và sự tham gia của con người sẽ gia tăng.
Xin cảm ơn ông!
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận