Khám sức khoẻ tài chính của 4 ngân hàng thương mại Nhà nước
Về huy động vốn, tổng nợ phải trả và vốn chủ sở hữu (tổng nguồn vốn – PV) của khối NHTM Nhà nước đạt 6.378.380 tỉ đồng tính tới cuối năm 2021, tăng 11,27% so với cuối năm 2020. Cơ cấu nguồn vốn huy động cũng chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ở nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư, phát hành giấy tờ có giá (huy động thị trường 1).
Cụ thể, các khoản nợ Chính phủ và NHNN đạt 69.519 tỉ đồng, giảm 35,39%. Tiền gửi của khách hàng đạt 5.222.393 tỉ đồng, tăng 12,2%. Phát hành giấy tờ có giá: đạt 234.154 tỉ đồng, tăng 26,76%. Nguồn vốn huy động thị trường 2 đạt 339.819 tỉ đồng, tăng 9,23%.
Về sử dụng vốn, tiền gửi tại NHNN đạt 262.689 tỉ đồng tính tới cuối năm 2021, tăng 5,54% so với cuối năm 2020. Tiền gửi và cho vay TCTD khác đạt 665.390 tỉ đồng, tăng 15,86%.
Về tín dụng, dư nợ cho vay khách hàng đạt đạt 4.626.301 tỉ đồng tính tới cuối năm 2021, tăng 10,41% so với cuối năm 2020.
Về hoạt động đầu tư, tổng số dư các khoản chứng khoán kinh doanh đầu tư của khối NHTM Nhà nước là 597.235 tỉ đồng, tăng 17,16%. Con số này đã bao gồm các khoản dự phòng rủi ro.
Về chất lượng tài sản, tổng nợ xấu năm 2021 là 58.451 tỉ đồng, Chất lượng tín dụng được đảm bảo, nợ xấu năm 2021 là 58.451 tỉ đồng, chiếm 1,23% so với tổng dư nợ cho vay khách hàng và tăng 1,69% so cuối năm 2020.
Tổng số dư các khoản nợ được cơ cấu và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 09 và Quyết định 780 của khối NHTM Nhà nước là 4.034,9 tỉ đồng, giảm tương đương 13,8%. Theo đó, 3 ngân hàng giảm dần số dư các khoản nợ cơ cấu giữ nguyên nhóm nợ, gồm: Vietinbank giảm 227,24 tỉ đồng; Vietcombank giảm 247,3 tỉ đồng; Agribank giảm 2.084 tỉ đồng.
Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi, và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 01/2020 của NHNN (đã được sửa đổi, bổ sung) là 255.600,08 tỉ đồng đến cuối năm 2021.
Về kết quả xử lý nợ xấu, tổng số nợ xấu của các NHTM Nhà nước được xử lý trong năm 2021 thông qua các hình thức, gồm: Khách hàng trả nợ, bán phát mại tài sản; trích lập dự phòng đạt 59.506,59 tỉ đồng, giảm 14,32% so vứi cuối năm 2020; sử dụng dự phòng rủi ro khoảng 38.912,92 tỉ đồng, giảm so với cuối năm 2020.
Về kết quả kinh doanh, tổng doanh thu của 4 ngân hàng đạt 452.238 tỉ đồng trong năm 2021, tăng 2,15% so với năm 2020. Tổng chi phí đạt 380.116 tỉ đồng, giảm 0,38%.
Lợi nhuận trước thuế đạt 71.367 tỉ đồng, tăng 17%. Lợi nhuận sau thuế đạt 57.265 tỉ đồng, tăng 17,4%.
Về hiệu quả sử dụng vốn, tỷ suất lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu (ROE) hợp nhất thời điểm cuối năm 2021 đạt 16,05%, tăng 1,01% so với năm 2020. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản (ROA) hợp nhất đạt 0,9%, tăng 0,05%.
Về tình hình quản lý nợ phải thu – phải trả, các khoản nợ phải thu (ngoài các khoản phải thu từ hoạt động tín dụng – PV) là 62.560,1 tỉ đồng, tăng 14.697,3 tỉ đồng so với năm 2020. Trong đó, Vietinbank có các khoản nợ phải thu là 32.812 tỉ đồng, tăng 11.585 tỉ đồng, chủ yếu là các khoản phải thu bên ngoài. BIDV có các khoản phải thu là 7.839 tỉ đồng, giảm 1.945 tỉ đồng.
Vietcombank có các khoản nợ phải thu là 14.140,8 tỉ đồng, tăng 7.969,6 tỉ đồng, chủ yếu các khoản phải thu khác bên ngoài. Agribank có các khoản nợ phải thu là 7.768,3 tỉ đồng, giảm 2.912,3 tỉ đồng.
Hoạt động đầu tư ngoài ngành mang về kết quả tích cực
Về tình hình đầu tư vốn và thoái vốn ngoài ngành, Chính phủ cho biết tổng số dư đầu tư góp vốn, mua cổ phần tại các công ty con, công ty liên kết, đơn vị nhận vốn khác của VietinBank đạt 5.928 tỉ đồng tính tới cuối năm 2021, không biến động so cuối năm 2020.
Theo báo cáo của Vietinbank, hoạt động của các công ty con ở trong nước và tại nước ngoài của Vietinbank năm 2021 đều có lãi và dự kiến lợi nhuận chuyển về Vietinbank là 750.387 triệu đồng.
Năm 2021, VietinBank tiếp tục thực hiện tái cơ cấu danh mục đầu tư theo hướng thoái vốn tại Công ty Vietinbank Leasing; giảm tỷ lệ sở hữu tại VietinBank Security từ 75,62% xuống 51%; đối với Công ty Quản lý Quỹ Vietinbank đã nộp hồ sơ về chấp thuận giảm vốn điều lệ thông qua phương án hoàn trả vốn về Vietinbank.
Với BIDV, tổng giá trị các khoản đầu tư vào công ty con, công ty liên kết, công ty liên doanh và đầu tư tài chính là 8.133 tỉ đồng, chiếm 15,1% vốn điều lệ và Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, giảm 79 tỉ đồng so với thời điểm cuối năm 2020. Lợi nhuận sau thuế của các công ty con năm 2021 đạt 870,6 tỉ đồng, tăng 60,4%. Lợi nhuận sau thuế của 4 công ty liên kết đạt 567 tỉ đồng, tăng 26%.
BIDV hiện có 4 dự án đầu tư tại nước ngoài gồm: Ngân hàng liên doanh Lào – Việt (LVB) tại Lào, Công ty TNHH BIDV Quốc tế (BIDVI) tại Hongkong, BIDV – Chi nhánh Yangon tại Myanmar và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Campuchia (BIDC) tại Campuchia. BIDV tiếp tục xây dựng và triển khai kế hoạch thoái vốn của BIDV tại VALC theo các quy định của pháp luật.
Với Vietcombank, tổng giá trị vốn đầu tư là 5.778,7 tỉ đồng, chiếm 13,4% vốn điều lệ và Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ tín tới cuối năm 2021, giảm 1,4% so với thời điểm cuối năm 2020.
Vietcombank đầu tư vào 10 công ty con, công ty liên kết, với tổng vốn đầu tư đạt 4.117 tỉ đồng, chiếm 71,2% danh mục đầu tư của Vietcombank. Kết quả hoạt động kinh doanh của các công ty cơ bản đều ổn định và có lãi.
Về đầu tư dài hạn khác, ngân hàng có 11 khoản đầu tư, với tổng vốn đầu tư đạt 1.661,46 tỉ đồng, chiếm 28,8% tổng danh mục đầu tư. Danh mục đầu tư dài hạn khác của Vietcombank tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như tổ chức tín dụng với tỷ trọng 67,5% và hàng không với tỷ trọng 22,8%.
Tổng thu nhập từ danh mục đầu tư 2021 là 1.033,78 tỉ đồng, trong đó thu nhập từ cổ tức/lãi được chia tiền mặt là 139,5 tỉ đồng.
Vietcombank cũng thực hiện 03 khoản đầu tư ra nước ngoài gồm Công ty Chuyển tiền Vietcombank (do Vietcombank sở hữu 87,5% vốn), Công ty tài chính Việt Nam- Hồng Kông và Ngân hàng TNHH MTV Ngoại Thương Việt Nam tại Lào (do Vietcombank sở hữu 100% vốn). Tình hình đầu tư vốn ra nước ngoài, thu hồi vốn đầu tư và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các dự án đầu tư đều có lãi.
Trong năm 2021, ngân hàng đã hoàn tất việc tăng vốn điều lệ tại Công ty Tài chính Việt Nam tại Hồng Kông từ 36,02 triệu lên 105 triệu đô la Hồng Kông, tương đương 306,9 tỉ đồng; thu từ thoái vốn Vietnam Airline đạt 3,93 tỉ đồng.
Với Agribank, tổng giá trị đầu tư góp vốn, mua cổ phần vào các doanh nghiệp khác là 2.232 tỉ đồng tính tới cuối năm 2021, chiếm 5,97% vốn điều lệ và quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của ngân hàng.
Năm 2021, các công ty con của Agribank đều kinh doanh có lãi, hoàn thành kế hoạch lợi nhuận được giao. Agribank thu lợi nhuận, cổ tức của năm 2020 từ hoạt động đầu tư vào công ty con và doanh nghiệp khác là 18,7 tỉ đồng và 2.730.000 cổ phiếu của ABIC. Ngoài ra, ngân hàng nhận cổ tức năm 2020 của CMC và Napas với giá trị lần lượt là 258.219 cổ phiếu và 43,5 tỉ đồng.
Ngân hàng cũng thực hiện thoái vốn thành công tại Pvcombank để thu về 2,9 tỉ đồng/2,5 tỉ đồng vốn đầu tư ban đầu; thoái một phần vốn đầu tư tại CMC để thu về 56,1 tỉ đồng/156 tỉ đồng vốn đầu tư ban đầu. Đồng thời, Agribank xây dựng phương án trình NHNN để thực hiện thoái vốn tại Agriseco và ALCI.
Chia sẻ thông tin hữu ích