Tranh dân gian Đông Hồ và ước vọng hồi sinh một làng nghề
Trong cuộc sống hiện đại hôm nay, thú chơi tranh Đông Hồ mỗi dịp Tết, Xuân về đến đã dần mai một, nhưng với sức sống mãnh liệt của một nét đẹp văn hoá, dòng tranh này vẫn đang bền bỉ tồn tại cùng ước vọng hồi sinh làng nghề của những người tâm huyết với văn hoá dân tộc.
Trưởng thôn Đông Hồ, ông Nguyễn Đăng Quốc nhiệt tình đưa chúng tôi đi thăm ngôi làng có trên 500 năm tuổi nghề, hào hứng ôn lại quãng thời gian được làm tranh… và cũng ngậm ngùi chia sẻ những thăng trầm của làng nghề trước biến thên của lịch sử và đời sống kinh tế - xã hội.
Ông Quốc kể, trước kia, vào mỗi dịp Tết Nguyên Đán sắp đến, làng tranh Đông Hồ tấp nập bán mua. Khi nhà nhà đều có thói quen mua tranh mới về dán trên tường, hết năm lại lột bỏ và thay bằng những bức tranh mới. Thời kì cực thịnh của làng tranh là vào cuối thế kỷ 19 đến những năm 40 - 50 của thế kỉ 20. Lúc ấy, trong làng có 17 dòng họ thì tất cả đều làm tranh và cứ khoảng tháng 7, tháng 8 hàng năm là cả làng đã tất bật chuẩn bị cho mùa tranh Tết.
“Thời điểm ấy cả làng rực rỡ sắc màu của giấy điệp. Khắp nơi, không một mảnh đất trống nào không được người dân làng Hồ tận dụng để phơi giấy: từ sân nhà, sân đình, ven các ngõ xóm, đường làng, dọc theo triền đê cho đến các nóc nhà, nóc bếp… Chỉ thấy cảnh đó, tôi và chúng bạn đã rộn ràng, muốn tham gia làm tranh ngay cùng mọi người”, ông Quốc nhớ lại.
Theo thời gian, trước sự thăng trầm của lịch sử, đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường với sự hội nhập mạnh mẽ các trào lưu văn hoá cùng nhiều sự lựa chọn, thú chơi tranh đang dần ít đi, tranh làm ra không có nhiều người mua, nên nghề làm tranh tại làng Đông Hồ cứ thế mai một dần. Cho đến nay, hơn 90% hộ dân làng Hồ chuyển sang làm đồ vàng mã, còn nghề làm tranh cứ ít dần theo thời gian, chỉ còn lại duy nhất 2 dòng họ giữ được nghề truyền thống là dòng họ của nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam. Điều đó lý giải vì sao, dịp sát Tết thế này, dạo quanh Đông Hồ đều thấy chật cứng đồ dùng cho người cõi âm thay thế cho những rực rỡ sắc màu, cảnh nườm nượp mua bán tranh như đã từng được nhắc trong nhiều trang sách.
Nhìn ngắm phòng trưng bày với hàng trăm bức tranh được nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế trưng treo một cách trang trọng, du khách sẽ phần nào lý giải được vì sao tranh Đông Hồ có được sức sống lâu bền và sự cuốn hút đặc biệt với nhiều thế hệ người Việt, cũng như du khách nước ngoài như vậy? Thuộc dòng tranh in từ ván khắc gỗ, nhưng những đề tài trên tranh không hề khô cứng mà phản ánh chân thực, sinh động cuộc sống bình dị, mộc mạc, cùng như nét văn hóa truyền thống của người Việt.
Và bởi mỗi bức tranh đều hấp dẫn, độc đáo ở màu sắc, bố cục, khuôn hình được làm từ những chất liệu hoàn toàn tự nhiên nên thuần khiết, ấm áp mà có lẽ chỉ riêng Việt Nam mới có. Cũng bởi những nét đặc trưng như thế, mà với không ít người Việt, những bức tranh Đông Hồ như: Đám cưới chuột, Vinh quy bái tổ, Vinh hoa phú quý, Chăn trâu thổ sáo, Đàn gà mẹ con… trở nên gần gũi, thân thuộc và là một phần không thể thiếu mỗi khi Tết đến, Xuân về.
Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế kể lại, như mọi đứa trẻ sinh ra và lớn lên ở làng, từ khi 11 tuổi ông đã bắt đầu tham gia vào các công đoạn làm tranh. Từ sơn hồ lên giấy, phơi giấy cho khô hồ, quét lớp bột điệp lên rồi lại phơi giấy cho khô lớp điệp. Khi in tranh cũng phải in từng màu lần lượt, nếu có 5 màu thì 5 lần in, mỗi lần in là một lần phơi. Cứ như thế, từng lớp tranh với các hình ảnh, đường nét cảnh sắc thiên nhiên, nếp sinh hoạt dần dần lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời.
Từng được sống trong cảnh nhộn nhịp cả làng làm tranh mỗi dịp Tết đến, rồi lại được chứng kiến cảnh khách mua tranh dần thưa thớt, số nhà làm tranh cũng vơi đi, người con đời thứ 20 của một dòng họ làm tranh Đông Hồ có tiếng không khỏi chua xót. Yêu nghề, lại vốn là một sinh viên Mỹ thuật, ông Chế cùng những người con của mình đã kiên quyết giữ nghề như tâm nguyện các thế hệ đi trước.
Ông Chế đã tìm mua lại tất cả các bản khắc cổ từ những gia đình không còn theo nghề tranh, rồi động viên các con, cháu tiếp tục làm. Bên cạnh đó, nhận thấy việc treo tranh tờ kiểu truyền thống không còn phù hợp, ông Chế đã tìm tòi, nghiên cứu các kiểu khung tranh vừa có thiết kế gần gũi với tranh dân gian, vừa thích hợp với xu hướng trang trí nội thất hiện đại. Đồng thời, làm phong phú các mặt hàng lưu niệm, quà tặng với tranh Đông Hồ như: Lịch tường, lịch bàn, sổ tay, khung tranh, quạt…
Với những nỗ lực của mình, ông Chế không ngừng nuôi hy vọng, đến một thời điểm nào đó, khi cuộc sống khấm khá, ổn định hơn, nhiều người Việt Nam sẽ lại tìm về với tranh Đông Hồ, như tìm về một phần đẹp đẽ trong bề dày văn hoá dân tộc. Và đúng như khẳng định của ông tại buổi khánh thành Trung tâm giao lưu văn hóa tranh dân gian Đông Hồ, nơi đây đã trở thành điểm du lịch trải nghiệm hấp dẫn của du khách trong nước và quốc tế khi về thăm làng Tranh Đông Hồ, về với Thuận Thành, mảnh đất của các danh thắng: chùa Dâu, chùa Bút Tháp lăng Kinh Dương Vương, đền Sỹ Nhiếp, Thành Luy Lâu...
Ông Nguyễn Văn Ảnh, Phó giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Ninh cho biết, trước nguy cơ mai một dòng tranh truyền thống, những năm qua, UBND tỉnh đã có nhiều hoạt động nỗ lực bảo vệ, phát huy giá trị văn hóa của tranh dân gian Đông Hồ.
Cụ thể, tháng 6/2014, UBND tỉnh Bắc Ninh đã phê duyệt Ðề án "Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa tranh dân gian Ðông Hồ, huyện Thuận Thành, giai đoạn 2014 - 2020 và định hướng đến 2030" với tổng kinh phí gần 60 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách và các nguồn vốn khác. Đề án được xây dựng với mục tiêu nhằm khẳng định giá trị nổi bật của tranh dân gian Đông Hồ; xác định hiện trạng, nguy cơ mai một của dòng tranh này. Đồng thời, đưa ra các giải pháp quảng bá, phát huy giá trị của làng tranh trong thời kỳ hội nhập.
Theo Đề án, Trung tâm bảo tồn và phát huy giá trị tranh dân gian Đông Hồ với kinh phí 50 tỷ đồng đã và đang được trieenrkhai thực hiện. Cùng với đó, UBND tỉnh Bắc Ninh đã xây dựng hồ sơ ứng cử Quốc gia tranh dân gian Đông Hồ trình UNESCO đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại và đề xuất này đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đồng ý.
Cũng theo ông Nguyễn Văn Ảnh, cùng với nỗ lực của tỉnh, các đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài cũng góp sức quảng bá di sản tranh dân gian Đông Hồ ra thế giới thông qua các cơ chế ngoại giao như dùng tranh dân gian Đông Hồ làm quà tặng. Các nghệ nhân tại làng nghề cũng tích cực tham gia các hội chợ, triển lãm, hỗ trợ đào tạo nghề, tạo cơ hội cho học sinh đến trải nghiệm học làm tranh...
Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu tiến hành nghiên cứu, đánh giá, phân tích thực trạng bảo tồn, phát huy giá trị di sản tranh dân gian Đông Hồ, dự báo những tác động tiêu cực, từ đó có những biện pháp, hành động kịp thời, hiệu quả ngăn chặn tác động tiêu cực gây ảnh hưởng làm mai một dòng tranh này.
Đáng chú ý, thời gian gần đây, những nghệ nhân làm tranh còn lại của làng tranh Đông Hồ với khát vọng giữ nghề đã đưa tranh hoặc hình ảnh tranh Đông Hồ một cách sáng tạo vào đời sống hiện đại bằng cách vẽ lại tranh, thiết kế cho phù hợp rồi in trên những sản phẩm như quà lưu niệm, áo dài, áo yếm, lịch để bàn, túi vải… như cách mà nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đã làm. Hay còn được "hồi sinh" trong các thiết kế thời trang, thiết kế nội thất dưới bàn tay của các nghệ sỹ trẻ. Với những nỗ lực đó, tranh Đông Hồ đã bắt đầu thu hút sự quan tâm trở lại của nhiều người, đặc biệt là giới trẻ và như luồng gió lành "thổi" vào dòng tranh dân gian này một luồng sinh khí mới.
Làng tranh dân gian Đông Hồ đang đứng trước những vận hội mới. Hy vọng trong tương lai gần, cùng với sự đầu tư, vào cuộc của các cơ quan chức năng, lòng nhiệt huyết, yêu nghề của các nghệ nhân, làng tranh Đông Hồ sẽ tìm lại được vị trí vốn có của mình và ngày càng phát triển, làm giàu thêm cho nền văn hoá đậm đà bản sắc của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, góp phần xây dựng một sản phẩm văn hóa trở thành thương hiệu, thành công cụ quảng bá, giới thiệu về văn hóa Việt Nam ra thế giới.
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận