Thương chiến Mỹ - Trung: Sẽ làm gián đoạn thương mại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
Các doanh nghiệp tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APAC) đang bị kẹt vào giữa hai chiều chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc.
Nhóm các quốc gia mới nổi tại APAC đang hưởng lợi
Theo báo cáo của Grant Thornton, bất luận những hệ quả của cuộc chiến này thì mô hình thương mại của khu vực có thể thay đổi một cách vĩnh viễn và các doanh nghiệp với tầm nhìn chiến lược sẽ là những đối tượng hưởng lợi đầu tiên.
Cả thế giới đang chứng kiến một loại hình chiến tranh thương mại toàn cầu mới giữa Mỹ và Trung Quốc, theo đó thuế quan áp dụng trên các mặt hàng vì các mục tiêu chính sách rộng hơn, chủ yếu nhằm kiểm soát công nghệ mới và gây ảnh hưởng đến thương mại. Tuy đã có những dấu hiệu hạ nhiệt tạm thời sau cuộc họp G20 hồi tháng 6 tại Osaka (Nhật Bản) khi cả hai bên đồng ý khởi động lại các vòng đàm phán, nhưng chưa có bất kỳ kết quả rõ ràng nào được ghi nhận.
Thực tế trong Báo cáo Kinh doanh Quốc tế (IBR) mới nhất của Grant Thornton đã ghi nhận chỉ số lạc quan của khu vực APAC giảm 0,08% kể từ nửa cuối năm 2018 và thấp hơn mức 50% so với nửa đầu năm trước.
Tuy nhiên, các dữ liệu ghi nhận cũng cho thấy tại Việt Nam 72% người được khảo sát cảm thấy lạc quan về triển vọng kinh tế trong 12 tháng tới. Chỉ số lạc quan của Việt Nam xếp hạng nhì trên toàn bảng, vượt trên mức trung bình toàn khu vực APAC (26%) và mức trung bình toàn cầu (32%).
Các doanh nghiệp cần cân nhắc về phương pháp đảm bảo tăng trưởng trong hoàn cảnh phải đối mặt với sự gián đoạn thương mại lâu dài đến từ gián đoạn chuỗi cung ứng, cải tổ công nghệ, và việc tăng cường các yêu cầu pháp lý và tuân thủ cũng có thể cản trở việc tiếp cận những thị trường mới.
Tranh chấp thương mại đã gây ra các tác động không đồng đều trên toàn khu vực. Những nền kinh tế mới nổi sẽ được hưởng lợi khi các doanh nghiệp thay đổi chiến lược sản xuất.
Thành viên sáng lập và Cố vấn HĐQT cấp cao của Grant Thornton Việt Nam, ông Kenneth Atkinson cho biết: “Việt Nam đã đang chứng kiến một sự tăng trưởng mạnh trong FDI do có sự chuyển dịch trong quá trình sản xuất của các mặt hàng như: may mặc, giày dép và dụng cụ điện tử, đây là kết quả của căng thẳng thương mại hiện nay giữa Mỹ và Trung Quốc. Trong 5 tháng đầu năm 2019, Việt Nam đã thu hút được 16,5 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI), trong đó 30% đến từ Hồng Kông cũng như các nguồn đầu tư từ Trung Quốc. Các ngành công nghiệp hưởng lợi chủ yếu là sản xuất và gia công.”
Làn sóng công nghệ mới sẽ thay đổi cuộc chơi
Công nghệ đang được xem là vấn đề trọng tâm trong quan hệ Mỹ – Trung Quốc và làm nhòe đi ranh giới giữa cạnh tranh kinh tế và an ninh quốc gia. Điều này được thể hiện trong quyết định của Hoa Kỳ nhằm liệt Huawei vào danh sách đen đầu năm nay.
Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương là một trong những khu vực tiên tiến nhất trong việc triển khai và ươm mầm các công nghệ mới. Khu vực này hiện cũng đang dẫn đầu về phát triển 5G - một công cụ tiềm năng nhằm thay đổi cuộc chơi của nhiều doanh nghiệp. Trong khi khả năng về công nghệ của Trung Quốc đang tiến bộ ở tốc độ chóng mặt thì Mỹ vẫn phải đang nỗ lực để đuổi kịp.
Bất chấp chiến tranh thương mại, kỳ vọng vào đầu tư công nghệ trong khu vực ở hầu hết các quốc gia Đông Nam Á đều dự đoán một mức tăng trưởng đáng kể. Các doanh nghiệp Ấn Độ dự kiến tăng trưởng ròng của đầu tư công nghệ ở mức 75%, Indonesia dự kiến mức tăng 74% trong 12 tháng tới. Theo Báo cáo Kinh doanh Quốc tế của Grant Thornton, đầu tư công nghệ ở Việt Nam được kì vọng sẽ tăng 63%.
Chiến tranh thương mại cũng đặt ra những yêu cầu khắt khe đối với chuỗi cung ứng toàn cầu, khi người tiêu dùng đòi hỏi tiêu chuẩn cao hơn về tuân thủ pháp lý và chuẩn mực.
Tại Anh, Mỹ và Châu Âu, mối quan tâm của các nhà quản lý đều hướng về thực hành của chuỗi cung ứng, vì họ có thể dễ dàng phải đối mặt với các kiện tụng pháp lý - ví dụ như các trường hợp liên quan đến luật chống hối lộ - hoặc đối mặt với việc hủy hoại danh tiếng nếu các nhà cung cấp không đạt được các chuẩn mực đạo đức.
Tuy nhiên, việc triển khai các yêu cầu luật pháp quốc tế lại là một thách thức lớn và tiến độ thực hiện thường chậm hơn đối với các nước có chỉ số nhận thức tham nhũng rất thấp.
Trên thực tế, Báo cáo Kinh doanh Quốc tế chỉ ra rằng có 43% các doanh nghiệp dẫn đầu tại Việt Nam thừa nhận rằng quy định ngặt nghèo và phức tạp là một rào cản cho việc mở rộng ra thị trường quốc tế. Chỉ số này được ghi nhận ớ mức 44% tại các nền kinh tế mới nổi APAC và 28% tại các quốc gia đã phát triển trong khu vực này.
Xếp hạng về mức độ kỳ vọng của Việt Nam trong 12 tháng tiếp theo như sau:
Hạng 1 trong kỳ vọng tăng nguồn nhân lực với mức 70%
Hạng 2 trong kỳ vọng tăng trưởng xuất khẩu với mức 60%, xếp sau Ấn Độ (65%)
Hạng 2 trong kỳ vọng tăng lợi nhuận với mức 80%, xếp sau Nigeria (89%)
Hạng 2 trong kỳ vọng tăng dự án đầu tư xây dựng mới với mức 57%, xếp sau Nigeria (62%)
Hạng 2 trong kỳ vọng tăng đầu tư vào nhà máy và thiết bị với mức 64%, xếp sau Nigeria (72%)
Hạng 3 trong kỳ vọng tăng doanh thu với mức 76%, xếp sau Nigeria (90%) và Indonesia (79%).
Hạng 3 trong kỳ vọng tăng thu nhập của người lao động với mức 81%, sau Thụy Điển (87%) và Ấn Độ (86%)
Hạng 3 trong kỳ vọng tăng cường nghiên cứu & phát triển (R&D) ở mức 67%, sau Nigeria (77%) và Nam Phi (70%)
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận