Phân tích mối quan hệ giữa lãi suất, tỷ giá và lạm phát trên thị trường tài chính
Bài viết này phân tích, đánh giá các công cụ điều hành chính sách tài chính, kinh tế được sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế của một quốc gia. Những chính sách điều hành tiền tệ của Ngân hàng nhà nước nhằm mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế. Qua đó, các nhà đầu tư tài chính nói chung, đầu tư chứng khoán nói riêng cần quan tâm tìm hiểu để có kiến kiến thức và vận dụng phù hợp trong các quyết định đầu tư của mình cho phù hợp với tình hình thị trường.
Ngoài ra, nghiên cứu sẽ đưa ra sự phân tích, đánh giá các mối quan hệ, tác động giữ lãi suất, tỷ giá hối đoán đến lạm phát trong sự vận hành của nền kinh tế nói chung hiện nay
Tổng quan về lạm phát, lãi suất và tỷ giá hối đoái
Lạm phát là sự gia tăng giá cả hàng hóa, dịch vụ của một nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định cùng với sự mất giá trị của một đồng tiền nhất định. Lạm phát là hiện tượng kinh tế phổ biến của mọi quốc gia trong các giai đoạn phát triển kinh tế và được xem xét, đo lường bởi chỉ số giá tiêu dùng - CPI
Lãi suất là tỷ lệ mà theo đó tiền lãi được bên vay trả cho việc sử dụng tiền mà họ vay từ chủ thể cho vay. Cụ thể, lãi suất là tỷ lệ phần trăm trên tiền gốc phải trả cho một số lượng nhất định của thời gian mỗi thời kỳ và thường được tính theo năm. Lãi suất có thể xem là một công cụ rất quan trọng của chính sách tiền tệ, được ngân hàng trung ương các quốc gia sử dụng như công cụ để điều tiết các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như lạm phát, đầu tư, thất nghiệp.
Tỷ giá hối đoái là một chỉ số đo lường giá trị sức mua của hai loại tiền tệ, tỷ giá hối đoái phản ánh giá trị của một đơn vị đồng tiền này khi trao đổi một đơn vị đồng tiền khác. Ngoài ra, tỷ giá hối đoái là mức giá tại một thời điểm đồng tiền của một quốc gia hay khu vực này có thể được chuyển đổi sang đồng tiền của quốc gia hay khu vực khác. Theo đó, tỷ giá được tính bằng số đơn vị nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ. Khi tỷ giá giảm đồng nghĩa với việc đồng nội tệ lên giá và ngoại tệ giảm giá và ngược lại. Như vậy, tỷ giá cũng được xem là một công cụ được sử dụng để điều tiết các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: Cán cân thương mại, lạm phát, ổn định giá vàng, ổn định lãi suất thị trường.
Mối quan hệ giữa lãi suất và lạm phát
Khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ tức là sẽ cắt giảm lãi suất cơ bản khiến cho lãi suất trên các khoản vay trên thị trường cũng giảm theo, điều này sẽ khiến người dân, doanh nghiệp quan tâm hơn đến các khoản vay nhằm mục đích sản xuất, kinh doanh, đầu tư. Do đó, lượng tiền tệ lưu thông và mức tiêu dùng xã hội cũng tăng lên. Cùng lúc đó, lượng cung tiền với giá rẻ sẽ làm giá trị đồng tiền quốc gia thấp đi so với các loại ngoại tệ khác, đồng nghĩa với việc tỷ lệ lạm phát có thể tăng lên. Ngược lại, khi Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất cơ bản tức là thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ khiến các Ngân hàng thương mại cũng gia tăng lãi suất cho vay ở các kỳ hạn, làm cho nhu cầu về tiền giảm xuống. Cùng với đó, người dân thích gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lợi từ mức lãi suất cao, vì thế nhu cầu tiêu dùng thấp đi làm giảm nguy cơ tăng giá hàng hóa, dịch vụ. Như vậy, việc tăng lãi suất như vậy sẽ làm giảm lượng tiền trong lưu thông, ảnh hưởng tích cực lên đồng tiền của một quốc gia và theo đó sẽ dẫn đến tỷ lệ lạm phát mức phù hợp.
Tuy nhiên, lãi suất tăng cao vừa là biện pháp kiềm chế lạm phát nhưng đồng thời lại có tác động làm tăng chi phí tài chính cho doanh nghiệp, vì vậy cũng góp phần làm tăng giá cả hàng hóa khi doanh nghiệp chuyển chi phí đó cho người tiêu dùng và đẩy lạm phát gia tăng. Điều này sẽ ảnh hưởng đến lạm phát kỳ vọng cũng như hoạt động chi tiêu và đầu tư. Nếu người dân thấy rằng lãi suất tiền tiết kiệm sẽ không đổi hoặc tăng rất thấp, nghĩa là lãi suất thực sẽ âm thì họ sẽ rút tiền gửi tiết kiệm và đầu tư vào tài sản thực hay hàng hóa để bảo vệ sức mua. Khi đó, lạm phát sẽ có xu hướng gia tăng, vì thế lãi suất là một biến số quan trọng và có ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định tiêu dùng, đầu tư của các chủ thể kinh tế đồng thời cũng là biến số kinh tế tác động đến kỳ vọng lạm phát
Ngoài ra, theo quy luật kinh tế thị trường, lạm phát phải thấp hơn lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền gửi phải thấp hơn lãi suất cho vay. Nếu tỷ lệ lạm phát cao hơn so với mức lãi suất tiền gửi thì việc gửi tiền vào các ngân hàng sẽ không còn là kênh hấp dẫn và khi đó đồng tiền mất giá nhanh hơn lãi suất được hưởng. Vì thế người tiêu dùng muốn dùng tiền để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ, cất trữ vàng hoặc đầu cơ bất động sản để đảm bảo sức mua của đồng tiền. Điều này càng làm tăng lượng tiền trong lưu thông dẫn đến gia tăng lạm phát và tác động xấu tới nền kinh tế nói chung. Nếu mức lãi suất và tỷ lệ lạm phát tương đương nhau thì tình hình cũng sẽ có diễn biến tương tự nhưng với tốc độ chậm hơn.
Như vậy, có thể thấy rằng lạm phát và lãi suất có quan hệ chặt chẽ với nhau và tác động qua lại với nhau, vừa là nguyên nhân và hệ quả của nhau. Khi lạm phát cao dẫn đến phải áp dụng chính sách lãi suất cao nhưng khi áp dụng chính sách lãi suất cao trong một thời gian nhất định có thể kìm hãm gia tăng lạm phát. Do đó, sự tác động giữa lạm phát và lãi suất có thể thuận chiều hay nghịch chiều tùy từng giai đoạn cụ thể và ở mỗi quốc gia có những điều kiện khác nhau.
Mối quan hệ giữa tỷ giá và lạm phát
Để phân tích tác động của tỷ giá đến lạm phát trong nền kinh tế, bài viết xem xét dưới ba góc độ như sau:
- Xuất khẩu ròng:
Khi xuất khẩu ròng tăng lên là khi đồng nội tệ giảm giá so với đồng ngoại tệ dẫn đến cán cân thương mại có thể được cải thiện. Có thể thấy rằng xuất khẩu ròng là một thành phần của tổng cầu, cho nên khi xuất khẩu ròng tăng sẽ có tác động làm lạm phát gia tăng
- Cán cân thanh toán:
Khi tỷ giá tăng, xuất nhập khẩu ròng sẽ tăng lên làm góp phần cải thiện tình trạng cán cân thương mại. Mặt khác, khi xuất nhập khẩu ròng tăng, lãi suất trong nước tăng lên, trong ngắn hạn dòng vốn đổ vào trong nước tăng làm cán cân vốn tăng lên, từ đó cán cân thanh toán tổng thể được cải thiện. Khi cán cân thanh toán tổng thể thặng dư, tức là dòng vốn nước ngoài đổ vào trong nước tăng lên, lúc này sẽ có hai khả năng xảy ra:
+ Một là Ngân hàng Nhà nước sẽ phải cung ứng thêm tiền để mua ngoại tệ nhằm giữ tỷ giá không bị giảm xuống để khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, mặt khác để tăng cường dự trữ ngoại hối quốc gia. Như vậy, tác động không mong muốn là cung tiền tăng lên làm cân bằng tiền hàng trong nền kinh tế thay đổi, lạm phát sẽtăng lên;
+ Hai là nếu Ngân hàng Nhà nước không vì mục tiêu giữ cho đồng nội tệ được định giá thấp để khuyến khích xuất khẩu và giả định rằng dự trữ ngoại hối đã đủ mức cần thiết và không cần tăng thêm, trong trường hợp cán cân tổng thể thặng dư thì vẫn có một lượng ngoại tệ tăng lên trong nền kinh tế
Với những nước có nền kinh tế bị đôla hóa ở mức độ cao, tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế trong trường hợp này vẫn tăng lên vì nó bao gồm hai phần là: Tổng phương tiện thanh toán bằng nội tệ và tổng phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ. Khi tổng phương tiện thanh toán tăng lại gây sức ép lên giá cả và đẩy lạm phát tăng lên.
- Giá hàng hoá nhập khẩu:
Giá cả hàng hoá nhập khẩu bị tác động bởi hai thành phần là giá nhập khẩu trên thị trường thế giới và tỷ giá danh nghĩa. Khi tỷ giá danh nghĩa tăng làm giá hàng nhập khẩu tăng và ngược lại. Hàng nhập khẩu có thể là hàng hóa phục vụ cho sản xuất trong nước hoặc phục vụ tiêu dùng. Nếu là hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất, khi tỷ giá tăng dẫn đến chi phí các yếu tố đầu vào tăng, sản phẩm đầu ra cũng phải tăng giá. Nếu là hàng nhập khẩu tiêu dùng, khi tỷ giá tăng dẫn đến giá của hàng hóa tính bằng nội tệ tăng lên cũng là một nguyên nhân gây ra lạm phát. Tuy nhiên, ảnh hưởng của giá cả hàng hoá nhập khẩu đến lạm phát sẽ biểu hiện rõ hơn khi quốc gia có tỷ lệ nhập siêu, còn với những nước có tỷ lệ này nhỏ thì sự thay đổi của tỷ giá qua giá cả hàng hoá nhập khẩu đến lạm phát là không đáng kể
Về ảnh hưởng của lạm phát đến tỷ giá, khi lạm phát cao đồng nội tệ mất giá so với ngoại tệ, có tác động làm gia tăng tỷ giá. Khi lạm phát giảm đồng nội tệ lên giá so với ngoại tệ, có tác động làm hạ thấp tỷ giá. Khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ thấp giá thì có lợi cho xuất khẩu, có tác động làm gia tăng lạm phát. Khi tỷ giá giảm, đồng nội tệ lên giá thì có lợi cho nhập khẩu, có tác động làm giảm lạm phát. Do đó, tỷ giá có biến động cùng chiều với lạm phát.
Như vậy, có thể kết luận rằng lãi suất và tỷ giá là hai một công cụ của Nhà nước trong việc điều hành các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như lạm phát, cán cân thương mại, cán cân thanh toán. Nên có thể gọi là lãi suất và tỷ giá có tác động thuận chiều với lạm phát.
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận