Nền kinh Mỹ đang chậm lại nhanh chóng
Mỹ đã trải qua sự suy thoái nghiêm trọng về hoạt động kinh tế trong 1-2 tháng qua. Điều này thể hiện rõ nhất khi xem xét thị trường lao động Mỹ và một số chỉ số kinh tế hàng đầu.
Nhiều nhà đầu tư cố gắng dự báo các sự kiện trong tương lai bằng cách sử dụng các chỉ số hàng đầu, đây là một nhiệm vụ rất hữu ích nhưng khó khăn. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng các chu kỳ kinh tế lặp lại theo thời gian và các nhà đầu tư có kinh nghiệm có thể khai thác lợi thế này để vượt trội hơn phần lớn những người tham gia thị trường.
Đây là lý do tại sao việc giải thích đúng các loại số liệu này là rất quan trọng. Và giờ đây, chúng cung cấp một bức tranh khá ảm đạm. Phần tiếp theo của bài viết này sẽ xem xét các chỉ số hàng đầu đã đề cập ở trên cũng như các cầu phần quan trọng khác của nền kinh tế Mỹ, bao gồm các thước đo truyền thống. Bài viết này đề cập đến:
1) Hình thái tài chính của người tiêu dùng
2) Thị trường lao động
3) Ngành dịch vụ và sản xuất
4) Các doanh nghiệp nhỏ
NGƯỜI TIÊU DÙNG MỸ KHÔNG CÒN MẠNH MẼ NỮA
Người tiêu dùng Mỹ là động lực số MỘT của nền kinh tế Mỹ. Tính đến quý 1 năm 2024, họ chiếm gần 70% GDP của Hoa Kỳ, gần với kỷ lục mọi thời đại. Nếu người tiêu dùng mạnh thì nền kinh tế cũng vậy.
Tuy nhiên, trong vài tháng qua, người Mỹ đã cắt giảm chi tiêu vì tiền tiết kiệm tích lũy của họ trong thời kỳ đại dịch đã giảm và lạm phát vẫn ở mức trên 3% trong hơn 3 năm mặc dù đã giảm từ mức đỉnh 9.1%. Nói cách khác, giá cả vẫn tăng nhưng với tốc độ chậm hơn.
Để rõ ràng hơn, hạn mức tiết kiệm là biến động tổng tiết kiệm trong cấu trúc tài sản của và nó đã tăng rất mạnh trong giai đoạn 2020-2021. Hạn mức tiếp kiệm càng thì tiền của hộ gia đình càng nhiều và ngược lại càng thấp là cạn tiền.
Trên thực tế, hạn mức tiết kiệm hiện âm gần 170 tỷ Đô la.
Khi hạn mức tiết kiệm cạn kiệt, nhiều hộ gia đình đã đi vay nợ, đặc biệt là sử dụng thẻ tín dụng. Điều này đã khiến hạn mức tiết kiệm là số âm như hiện nay.
Trên thực tế, nợ thẻ tín dụng của Mỹ đã đạt mức cao nhất mọi thời đại là 1.12 nghìn tỷ Đô la vào quý 1 năm 2024. Nhiều người đã không thể trả khoản nợ này đúng hạn, điều này đã khiến tỷ lệ nợ thẻ tín dụng quá hạn NGHIÊM TRỌNG tăng vọt lên 10.7%, mức cao nhất trong 12 năm.
Nói cách khác, 118 tỷ Đô la nợ thẻ tín dụng sắp vỡ nợ.
Theo dữ liệu của Cục Dự trữ Liên bang, nếu chia theo nhóm thu nhập, hơn 20% nợ thẻ tín dụng là nợ quá hạn đối với 10% người nghèo nhất tại Mỹ. Đây là mức cao nhất kể từ cuộc Đại khủng hoảng tài chính.
Như bạn có thể thấy trên biểu đồ, ngay cả 10% người giàu nhất (đường màu vàng) cũng chứng kiến tình trạng nợ quá hạn tăng nhanh trong khi dữ liệu toàn quốc tăng vọt lên mức lớn nhất kể từ năm 2011.
Một ví dụ khác chứng minh rằng ngay cả những người giàu nhất cũng gặp khó khăn là cuộc khảo sát gần đây của Ngân hàng Dự trữ Liên bang Philadelphia.
37% người Mỹ kiếm được hơn 150,000 Đô la một năm cho biết họ đã cắt giảm chi tiêu tùy ý trong 12 tháng qua. Đáng chú ý, 15% số người được khảo sát phải vay mượn từ gia đình hoặc bạn bè.
Nhìn chung, 33% người tiêu dùng Mỹ lo lắng về việc cân đối thu chi và 23% trong số họ gặp vấn đề trong việc thanh toán hóa đơn.
Cuối cùng, khi xem xét tổng nợ, tổng số nợ của hộ gia đình cũng đã đạt kỷ lục mới trong quý 1 năm 2024 là 17.7 nghìn tỷ Đô la. Từ quý 4 năm 2023, con số này đã tăng lên tới 190 tỷ Đô la.
Về mặt tích cực, mặc dù tính theo % GDP thì con số này là ~77%, thấp hơn mức đỉnh điểm ~100% xảy ra vào năm 2009. Tuy nhiên, dữ liệu bị lệch bởi những người giàu nhất.
Hậu quả chung của các vấn đề tài chính như vậy là người tiêu dùng chi tiêu ít hơn. Doanh số bán lẻ được điều chỉnh theo lạm phát đã giảm trong hơn 2 năm và hiện thấp hơn gần 4% so với mức đỉnh điểm năm 2021 và 2022.
Kết quả là, dữ liệu doanh số bán lẻ thực tế đang trên đà giảm trong quý thứ 2 liên tiếp so với cùng kỳ năm trước. Trước đây, điều này chỉ xảy ra trong thời kỳ suy thoái.
Theo dữ liệu của BLS công bố ngày 5 tháng 7, nền kinh tế Mỹ đã tăng thêm 206,000 việc làm vào tháng 6, cao hơn 190,000 ước tính của Phố Wall. Đáng chú ý, số liệu của tháng 4 và tháng 5 đã được ĐIỀU CHỈNH GIẢM lần lượt là 57,000 và 54,000, hay tổng cộng là 111,000.
Số đơn xin trợ cấp thất nghiệp đạt 249,000 trong tuần kết thúc vào ngày 27 tháng 7, cao hơn 14,000 so với tuần trước đó và là mức cao nhất kể từ tháng 8 năm 2023.
Ngoài ra, số người nhận trợ cấp thất nghiệp tăng vọt lên 1.88 triệu, mức cao nhất trong gần 3 NĂM, cho thấy thị trường lao động yếu đi đáng kể.
Trên thực tế, 14 trong số 15 tháng gần đây nhất của số liệu bảng lương phi nông nghiệp đã giảm. Khi loại trừ các công việc của chính phủ, 11 trong số 12 tháng trong năm 2023 đã giảm, mức cao nhất kể từ năm 2008.
Hơn nữa, nền kinh tế Mỹ đã MẤT 192,000 việc làm trong quý 3 năm 2023. Theo dữ liệu từ Business Employment Dynamics của gần 5 triệu công ty, bao gồm hơn 100 triệu nhân viên Mỹ. Trong 30 năm qua, sự sụt giảm như vậy chỉ xảy ra trong thời kỳ suy thoái.
Phân tích dữ liệu gần đây nhất sâu hơn, tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ đã tăng lên 4.1% vào tháng 6, từ 4.0% vào tháng 5, cao hơn ước tính là 4.0%. Như bạn có thể thấy, kể từ tháng 4 năm 2023, tỷ lệ thất nghiệp đã tăng 0.7%.
Bảng lương phi nông nghiệp tháng 7 đạt 114,000, THẤP HƠN mức ước tính 176,000, mức thấp nhất kể từ tháng 1 năm 2021.
Cùng lúc đó, tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt lên 4.3% từ 4.1% của tháng 6, CAO HƠN mức ước tính 4.1%. Như bạn có thể thấy, tỷ lệ thất nghiệp hiện cao hơn nhiều so với mức trung bình 36 tháng, trong quá khứ luôn trùng với suy thoái ở Mỹ.
Hơn nữa, số lượng người thất nghiệp dài hạn tăng vọt lên mức cao nhất kể từ tháng 2 năm 2022 và số người làm việc bán thời gian để kiếm sống tăng cao nhất kể từ năm 2021.
Đồng thời, số người Mỹ có nhiều công việc đã tăng lên 8.47 triệu, mức cao thứ 3 trong lịch sử. Đây không phải là điều đang xảy ra trong một thị trường việc làm mạnh mẽ.
Điều đáng lo ngại nhất là sự khác biệt giữa tăng trưởng việc làm toàn thời gian và bán thời gian tại Mỹ là lớn nhất kể từ cuộc khủng hoảng COVID.
Sự khác biệt thậm chí còn lớn hơn so với thời kỳ suy thoái năm 2001 và đầu những năm 1990.
Nhìn chung, số lượng việc làm toàn thời gian đã giảm 1.6 triệu việc làm so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ tính riêng trong 6 tháng 2024, nền kinh tế Mỹ đã mất 1.5 TRIỆU việc làm toàn thời gian. Đồng thời, số lượng việc làm bán thời gian chỉ tăng 1 triệu.
Cuối cùng, số lượng việc làm tại Mỹ thay so với năm trước là tiêu cực trong hơn 2 năm.
Nói cách khác, các vị trí tuyển dụng tại Mỹ đã giảm trong hơn 24 tháng liên tiếp so với năm trước. Trước đây, tình trạng như vậy chỉ xảy ra trong thời kỳ suy thoái kinh tế sâu sắc.
Mặt khác, số lượng việc làm của chính phủ Mỹ đã tăng tới 179,000 vào tháng 5, mức tăng hàng tháng cao thứ hai được ghi nhận. Trên thực tế, vị trí tuyển dụng của chính phủ hiện là 1.1 triệu và chỉ còn khoảng 100,000 so với mức cao nhất mọi thời đại là 1.2 triệu.
Điều thú vị nữa là việc làm của chính phủ Mỹ đã tăng nhanh so với việc làm toàn thời gian. Sự gia tăng đột biến như vậy trong việc làm của chính phủ so với việc làm toàn thời gian đã được chứng kiến vào cuối mỗi chu kỳ kinh tế trong quá khứ.
Điều khiến ngọn lửa bùng cháy hơn nữa là Sahm Recession Rule Indicator (Chỉ báo quy tắc suy thoái Sahm) đã được kích hoạt. Đây là chỉ báo báo hiệu khi Mỹ đang trong thời kỳ suy thoái.
Nếu trung bình động 3 tháng của tỷ lệ thất nghiệp tăng 0.50 điểm phần trăm trở lên so với mức thấp nhất trong 12 tháng qua thì điều đó báo hiệu một cuộc suy thoái.
Hiện tại, con số này là 0.53 cho thấy nền kinh tế Mỹ đã rơi vào suy thoái.
CÁC NGÀNH DỊCH VỤ VÀ SẢN XUẤT ĐANG TRONG THỜI KỲ SUY THOÁI
Chỉ số PMI sản xuất và dịch vụ của ISM là các chỉ báo hàng đầu được công bố hàng tháng về hoạt động kinh tế của Mỹ trong các ngành sản xuất và dịch vụ dựa trên khảo sát các nhà quản lý mua hàng của hơn 300 và 400 công ty. Chúng được công nhận là thước đo chính của toàn bộ nền kinh tế.
Chỉ số trên 50 biểu thị sự tăng trưởng của ngành và dưới 50 biểu thị sự suy thoái.
Vào ngày 3 tháng 7, dữ liệu chỉ số PMI dịch vụ của ISM đã được công bố cho thấy hoạt động của ngành đã giảm xuống còn 48.8 điểm vào tháng 6 từ mức 53.8, mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng COVID, nghĩa là ngành này đang suy thoái.
Dữ liệu công bố gần nhất, chỉ số PMI dịch vụ của ISM đã tăng từ 48.8 lên 51.7 trong tháng 7 cho thấy sự phục hồi vừa phải trong hoạt động dịch vụ của Mỹ.
Cùng lúc đó, chỉ số PMI sản xuất của ISM đã giảm 19 tháng trong số 20 tháng qua, chuỗi giảm dài nhất kể từ cuộc Đại khủng hoảng tài chính.
Tuy nhiên cú sốc đã tác động đến thị trường sau khi dữ liệu sản xuất được công bố. Chỉ số PMI sản xuất của ISM giảm xuống 46.8 trong tháng 7 từ mức 48.5 của tháng 6, thấp hơn nhiều so với kỳ vọng của thị trường là 48.8, phản ánh sự thu hẹp trong hoạt động của các nhà máy ở Mỹ kể từ tháng 11 năm 2023. Đây là lần giảm thứ 20 trong 21 tháng gần nhất, chuỗi dài nhất kể từ những năm 1990, nhấn mạnh tác động của lãi suất cao đối với nhu cầu hàng hóa.
Những sự suy giảm như vậy trong quá khứ chỉ xảy ra trong thời kỳ suy thoái.
Phần tệ nhất là chỉ số việc làm (đường màu cam trên biểu đồ ở trên và đường màu đen bên dưới) đã giảm mạnh xuống còn 43.4, mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng COVID năm 2020.
Nói cách khác, các nhà máy tại Mỹ đã cắt giảm nhân sự với tốc độ như đã từng thấy trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính và cuộc khủng hoảng COVID.
Điều đáng chú ý là các chỉ số PMI là các chỉ số hàng đầu và thông thường khi suy thoái sản xuất xảy ra trong một thời gian dài như vậy thì ngành dịch vụ cũng đi theo con đường tương tự.
Trong 24 năm qua, mỗi lần cả hai ngành công nghiệp đều suy thoái, nền kinh tế Mỹ lại rơi vào suy thoái.
Trước tháng 6, chỉ có một ngành duy nhất suy thoái là ngành sản xuất. Thực tế này đã bị hầu hết các nhà kinh tế và người theo dõi thị trường bỏ qua. Bây giờ, sau khi ngành dịch vụ tham gia, nó đã gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh vì ngành này chiếm hơn 70% GDP của Hoa Kỳ.
Khi xem xét cả hai chỉ số, PMI tổng hợp của ISM, chúng ta có thể thấy rằng nó cũng đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ cuộc suy thoái do Đại dịch.
Trừ khi ngành dịch vụ phục hồi mạnh mẽ, chúng ta gần như có thể chắc chắn rằng Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (NBER) sẽ công bố suy thoái trong năm nay hoặc năm sau.
Điều này cũng được xác nhận bởi Chỉ số Kinh tế Hàng đầu Hoa Kỳ® (LEI), một chỉ số hàng đầu khác, giảm 14.7% so với đỉnh chu kỳ kinh tế này. Như bạn có thể thấy trên biểu đồ, trong 65 năm qua, sự sụt giảm như vậy chỉ xảy ra trong một cuộc suy thoái sâu sắc.
Chỉ số LEI tính đến dữ liệu thị trường lao động Mỹ, dữ liệu ngành sản xuất, giấy phép xây dựng, S&P 500 và trái phiếu Mỹ. Các thành phần của chỉ số này chủ yếu thiên về ngành sản xuất, đó là lý do tại sao cần nhiều thời gian hơn để chỉ ra điểm yếu trong toàn bộ nền kinh tế.
Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang phần cuối của phân tích.
CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ CỦA MỸ ĐANG GẶP KHÓ KHĂN
Các doanh nghiệp nhỏ là động lực chính của nền kinh tế Mỹ. Có 33 triệu doanh nghiệp nhỏ tại Mỹ, chiếm 44% GDP. Họ sử dụng 61.7 triệu lao động, chiếm 46.4% khu vực tư nhân.
Hàng tháng, Liên đoàn Doanh nghiệp Độc lập Quốc gia (NFIB) khảo sát khoảng 600 doanh nghiệp nhỏ về triển vọng kinh tế và cảm nhận chung của họ về nền kinh tế. Chỉ số lạc quan của doanh nghiệp nhỏ NFIB hiện ở mức khoảng 90 và mức trung bình 3 tháng của chỉ số này ở mức mà trước đây chỉ xảy ra trong thời kỳ suy thoái.
Nhìn chung, triển vọng về điều kiện kinh doanh của các chủ doanh nghiệp nhỏ là TỆ NHẤT trong 50 năm, theo báo cáo tháng 5 năm 2024 của NFIB. Điều này chắc chắn không tốt cho toàn bộ nền kinh tế.
Hơn nữa, Chỉ số Bất ổn của NFIB đã tăng 9 điểm lên 85 vào tháng 5, mức cao nhất kể từ đại dịch năm 2020.
Trong 40 năm qua, sự gia tăng bất ổn như vậy chỉ được chứng kiến hai lần: vào năm 2017 và năm 2020.
TỔNG KẾT
Hầu hết các dữ liệu kinh tế được nêu trong phân tích này cho thấy nền kinh tế Mỹ đã rơi vào suy thoái. Ngay cả các hộ gia đình Mỹ cũng cảm thấy như vậy và điều này được phản ánh trong việc cắt giảm chi tiêu của họ. Hơn nữa, theo cuộc thăm dò của Guardian/Harris vào tháng 5, 56% số người được hỏi cho biết họ tin rằng Mỹ đang suy thoái. Điều này thực sự là đáng lo ngại.
Điều duy nhất ngăn chặn suy thoái kinh tế xảy ra sớm hơn là chi tiêu lớn của chính phủ. Trong 12 tháng kết thúc vào tháng 5 năm 2024, chính phủ Hoa Kỳ đã chi 6.5 nghìn tỷ Đô la. Nhìn chung, trong vài năm qua, chi tiêu của chính phủ Mỹ tính theo % GDP đã dao động trong khoảng 40-43%, tương tự với cuộc Đại khủng hoảng tài chính. Nói cách khác, chính phủ Mỹ đã chi tiền như thể đang có suy thoái.
Chúng ta cũng phải nhớ rằng thông báo suy thoái của Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (NBER) có độ trễ khá dài. Trong 6 cuộc suy thoái gần đây nhất, thông báo về thời điểm suy thoái ở Mỹ bắt đầu trung bình là 234 ngày sau khi dữ liệu GDP được công bố.
Cuộc suy thoái của cuộc Đại khủng hoảng tài chính 2007-2009 được công bố một NĂM sau khi nó bắt đầu.
Nói về GDP, trong quý 1, nền kinh tế Mỹ tăng trưởng 1.4%, chậm lại đáng kể so với mức tăng trưởng 3.4% trong quý 4 năm 2023. GDP quý 2 tăng trưởng 2.8%.
Quay trở lại quý 4 năm 2007, tăng trưởng GDP của Mỹ là 2.5% và sau đó đột nhiên cuộc Đại khủng hoảng tài chính bắt đầu với mức suy giảm kinh tế 1.7% vào quý 1 năm 2008.
Nói cách khác, ngay cả tăng trưởng kinh tế vững chắc cũng không đảm bảo rằng suy thoái sẽ không xảy ra trong quý tiếp theo.
Theo dõi người đăng bài
Tiếp cận các chuyên gia VIP/PRO hàng đầu của 24HMONEY
Nhận ngay bài viết tài chính chuyên sâu
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận