Một góc nhìn về thị trường tài chính Việt Nam
Mặc dù trong năm 2019 nền kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, rủi ro và bất ổn, nền kinh tế Việt Nam vẫn đạt được nhiều kết quả tích cực.
Tăng trưởng GDP dự kiến đạt 7%, lạm phát được kiểm soát dưới 3%, thâm hụt ngân sách giảm về mức khoảng 3,5% GDP, tỷ lệ nợ công và nợ nước ngoài/GDP giảm dần, hoạt động xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài khả quan, tỷ giá ổn định, lãi suất có xu hướng giảm nhẹ. Trong bối cảnh đó, hệ thống tài chính vừa là nhân tố quan trọng đóng góp vào thành công chung, vừa nhận được động lực để phát triển với nhiều kết quả nổi bật, nhưng vẫn còn những vấn đề then chốt cần giải quyết trong thời gian tới.
Những kết quả đáng khích lệ
Trước hết là ba lĩnh vực thuộc thị trường tài chính (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm) đều có mức tăng trưởng khá (trên 10%) và lành mạnh hơn. Khu vực chứng khoán tăng trưởng tốt giúp cơ cấu hệ thống tài chính cân bằng hơn. Tính đến cuối tháng 11/2019, quy mô vốn hoá thị trường cổ phiếu đã đạt hơn 4,4 triệu tỷ đồng, tăng 11,6% so với cuối năm 2018, tương đương 80% GDP, vượt chỉ tiêu 70% GDP đề ra tại Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
Về huy động vốn từ TTCK, theo UBCK, tổng mức huy động vốn từ thị trường cổ phiếu đạt 242 ngàn tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm và dự báo đạt khoảng 300 ngàn tỷ đồng cả năm 2019.
Quy mô thị trường TPDN đến nay đạt khoảng 10% GDP (cao hơn mức 8,6% GDP của năm 2018), vượt mục tiêu 7% GDP năm 2020 của Chính phủ, quy mô thị trường TPCP tương đương 25% GDP. Kết quả này giúp tỷ lệ vốn hóa 2 thị trường cổ phiếu và trái phiếu đạt mức khoảng 115% GDP (vượt kế hoạch 100% GDP đến năm 2020 của Chính phủ).
Trong khi đó, khu vực các tổ chức tín dụng (TCTD) tăng trưởng khá tốt và chuẩn mực hơn: tín dụng cả năm 2019 ước tăng khoảng 13%. Bước điều chỉnh lại trong nhịp tăng trưởng tín dụng năm 2019 được đánh giá là cần thiết sau những năm tăng trưởng nóng vừa qua với mức tăng bình quân 15-16%/năm và tỷ lệ tín dụng/GDP đã lên đến 133% cuối năm 2018 (tương đối cao so với mức độ phát triển và thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam).
Quy mô khu vực bảo hiểm còn nhỏ bé song tốc độ tăng trưởng tốt. Theo Hiệp hội Bảo hiểm, đến hết tháng 11/2019, tổng tài sản của các doanh nghiệp bảo hiểm đạt 456.823 tỷ đồng, tăng 20,2% so với đầu năm; đầu tư trở lại nền kinh tế đạt 379.240 tỷ đồng, tăng 20%; tổng doanh thu phí bảo hiểm đạt 140.911 tỷ đồng, tăng 20,5% so với đầu năm.
Dự trữ ngoại hối cao kỷ lục (ở mức khoảng 73 tỷ USD vào cuối tháng 10/2019, tương đương 15,5 tuần nhập khẩu). Khu vực TCTD cơ cấu lại tín dụng theo hướng tăng trưởng tín dụng tập trung vào các ngành sản xuất, lĩnh vực ưu tiên và giảm tín dụng vào những ngành rủi ro. Đồng thời, Chính phủ đã kiểm soát khá tốt các yếu tố làm gia tăng nợ công bao gồm giảm bội chi ngân sách từ mức cao 6,28% GDP năm 2015 và 5,52% năm 2016 xuống khoảng 3,4% GDP cuối năm 2019). Năm 2019 tỷ lệ nợ công/GDP khoảng 56,1%, giảm so với mức 62-64% giai đoạn 2016-2018. Nhờ đó, xếp hạng thị trường tài chính Việt Nam năm 2019 tăng 3,5 điểm và tăng 10 bậc (theo WEF).
Năm là, xu hướng tài chính số, đặc biệt là Fintech, ngân hàng số phát triển nhanh: theo NHNN, 94% ngân hàng Việt Nam bắt đầu triển khai hoặc xây dựng chiến lược chuyển đổi số. Hệ sinh thái ngân hàng dần hình thành, theo đó, hệ sinh thái ngân hàng Việt Nam tập trung vào lớp dịch vụ lõi ngân hàng và bước đầu có lớp dịch vụ hệ sinh thái ngân hàng. Thanh toán không dùng tiền mặt phát triển nhanh với nhiều sản phẩm, tiện ích ngân hàng mới, hiện đại dựa trên ứng dụng công nghệ (đến hết tháng 8/2019, tổng giá trị giao dịch qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đạt trên 104 triệu giao dịch, tăng 19,57% về số lượng và 26,66% về giá trị giao dịch so với cùng kỳ năm 2018).
Thách thức tồn tại
Xu hướng thị trường tài chính năm 2020
Trong năm 2020, thị trường tài chính Việt Nam sẽ hoạt động theo những xu hướng chính như sau: (i) Qui định pháp lý ngày càng hoàn thiện và theo hướng chặt chẽ hơn trong đó tập trung vào triển khai các văn bản pháp luật đã được ban hành trong năm 2019 như: Luật Chứng khoán sửa đổi, Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi (2019), Quyết định số 242 của Chính phủ, Chỉ thị 06 của Thủ tướng, Quyết định 986/QĐ-TTg (2018), Chiến lược tài chính toàn diện, Nghị định 88(2019) của Chính phủ, Thông tư 22/2019/TT-NHNN,Thông tư 41/2016/TT-NHNN … (ii) Xu hướng phát triển tài chính số, đặc biệt là ngân hàng số, Fintech mạnh mẽ hơn trong năm 2020; (iii) Xu hướng tái cơ cấu các ĐCTC được đẩy mạnh: năm 2020 là năm chốt thực hiện các Đề án, kế hoạch 5 năm, điều này đòi hỏi công cuộc tái cơ cấu các ĐCTC gắn với yêu cầu lành mạnh hóa hoạt động cần triển khai quyết liệt hơn và có kết quả cụ thể; (iv) Áp lực cạnh tranh gia tăng từ nước ngoài và trong nước; (v) Xu thế hợp tác, kết nối và liên kết gia tăng: theo đó, hợp tác giữa ngân hàng bảo hiểm (banca-assurance), giữa ngân hàng-chứng khoán (tăng nghiệp vụ ngân hàng đầu tư - investment banking), ĐCTC - Fintech và Bigtech, ĐCTC - Regtech nhằm đảm bảo hiệu quả tuân thủ, giữa ĐCTC và các tổ chức khác tạo hệ sinh thái với ĐCTC làm trung tâm,trong đó môi trường ngân hàng mở (open banking) bắt đầu hình thành…v.v; (vi) Xu hướng tăng đầu tưcho phân tích dữ liệu lớn (big data analytics) và an ninh mạng.
Một số kiến nghị
Việt Nam cần ưu tiên khẩn trương hoàn thiện thể chế hệ thống tài chính; trong đó, cần tập trung: (i) ban hành Nghị định về thị trường mua bán nợ, tháo gỡ vướng mắc liên quan đến xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 của Quốc Hội; (ii) sửa Luật NHNN (2010) theo hướng tăng dần tính độc lập của NHNN, sửa Luật các TCTD (2010, 2017) nhằm tăng tính tự chủ, tính thị trường và minh bạch của các TCTD; (iii) sửa Luật Bảo hiểm tiền gửi (2012) theo hướng tăng vai trò, trách nhiệm của Bảo hiểm tiền gửi cũng như hạn mức đền bù cho phù hợp bối cảnh mới. Đồng thời, (iv) bổ sung luật định chi phối hoạt động quản lý, giám sát tập đoàn tài chính, một số mô hình kinh doanh mới trên nền tảng công nghệ, kể cả khung pháp lý thử nghiệm (Sandbox).
Chú trọng nâng cao năng lực quản lý, giám sát, an toàn và ổn định hệ thống tài chính-tiền tệ: các cơ quan quản lý, giám sát cần độc lập và được trao quyền nhiều hơn; chú trọng xây dựng mô hình quản lý-giám sát rủi ro hệ thống, mô hình ổn định tài chính-tiền tệ và cơ chế xử lý khủng hoảng; làm rõ và tăng vai trò của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia và Bảo hiểm tiền gửi; nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý, giám sát, ổn định hệ thống tài chính tiền tệ. Đồng thời,đẩy nhanh tiến độ tái cơ cấu và nâng cao năng lực của các ĐCTC; nâng cao và phát huy vai trò của các Hiệp hội ngành nghề.
Đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu thị trường tài chính và các ĐCTC, lành mạnh hóa các ĐCTC hướng tới đạt chuẩn thông lệ quốc tế. Tăng cường thanh tra ,giám sát; thực thi chế tài nghiêm minh đối với các vi phạm trên thị trường. Tiếp tục phát triển, đa dạng hóa sản phẩm-dịch vụ chứng khoán; tiếp tục nâng cao hiệu quả phối hợp chính sách (nhất là giữa CSTT vàCSTK) nhằm đạt hiệu quả trong chính sách lãi suất, vốn trung dài hạn; và thúc đẩy tiến trình nâng hạng của TTCK Việt Nam. Thực hiện quyết liệt các biện pháp tháo gỡ khó khăn về vốn chủ sở hữu cho các NHTM, đặc biệt là các NHTM có sở hữu Nhà nước chi phối, giảm thiểu thủ tục hành chính trong xét duyệt phương án bán chiến lược, đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa Agribank, cho phép giữ lại cổ tức, phát hành cổ phiếu cho CBNV(ESOP) …; xây dựng cơ chế lâu dài về biện pháp tăng vốn cho các NHTM (thay vì xem xét từng năm một) nhằm giảm thiểu thủ tục hành chính.
Tổ chức triển khai hiệu quả Chiến lược tài chính toàn diện, trong đó tập trung vào các giải pháp như:(i) phát triển đa dạng các kênh phân phối (ii) đồng bộ và nhất quán thực hiện các giải pháp thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt; (iii) tăng cường năng lực các định chế tài chính đặc biệt như Ngân hàng Hợp tác xã, Ngân hàng Chính sách xã hội, Quỹ TDND, Tổ chức tài chính vi mô…; (iv) phát triển cơ sở hạ tầng tài chính; (v) xây dựng và thực thi chiến lược giáo dục tài chính… Có khung chính sách và biện pháp cụ thể nhằm hạn chế rủi ro hệ thống và màng lưới an toàn hệ thống: (i) nâng cao hiệu quả phối hợp chính sách của các cơ quan quản lý trong lĩnh vực này, (ii) nâng cao năng lực (nhất là về nhân lực, công nghệ, cơ sở dữ liệu…) của các cơ quan quản lý, (iii) nâng cao năng lực, quyền năng, tính độc lập của các cơ quan giám sát song vẫn đảm bảo tăng khả năng phối kết hợp, trong đó cần có cơ chế xử lý khủng hoảng, và (iv) tăng khảnăng chống chịu của hệ thống tài chính đối với các cú sốc bên ngoài.
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận