24HMoney
Install 24HMoneyTải App
copy link
menu
Đoàn Ngọc Thao Pro
24HMoney đã kiểm duyệt 24HMONEY đã kiểm duyệt

Lạm phát kèm suy thoái (Stagflation)

Khái niệm

Lạm phát kèm suy thoái trong tiếng Anh là Stagflation.

Lạm phát kèm suy thoái là một điều kiện tăng trưởng kinh tế chậm và tỉ lệ thất nghiệp tương đối cao, hoặc trì trệ kinh tế kèm theo giá cả tăng hoặc lạm phát. Nó cũng có thể được định nghĩa là lạm phát kèm giảm tổng sản phẩm quốc nội (GDP).

Sự xuất hiện của lạm phát kèm suy thoái

Thuật ngữ "Lạm phát kèm suy thoái" lần đầu tiên được sử dụng bởi chính trị gia Iain Macleod trong thời kì căng thẳng kinh tế ở Anh vào những năm 1960 khi ông phát biểu tại Hạ viện. Vào thời điểm đó, ông đã phát biểu một mặt về lạm phát, mặt kia là suy thoái và gọi đó là "tình trạng trì trệ".

Sau đó, nó đã được sử dụng một lần nữa để mô tả thời kì suy thoái trong những năm 1970 sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ, khi Hoa Kỳ trải qua một cuộc suy thoái làm cho 5/4 tổng sản phẩm quốc nội tăng trưởng âm. Lạm phát đã tăng gấp đôi vào năm 1973 và đạt hai con số vào năm 1974, thất nghiệp đạt 9% vào tháng 5 năm 1975.

Các giả thuyết về nguyên nhân của lạm phát kèm suy thoái

Chính vì sự khởi đầu của lạm phát kèm suy thoái đại diện cho sự thất bại lớn của các lí thuyết kinh tế thống trị thời bấy giờ, các nhà kinh tế kể từ đó đã đưa ra một số lập luận về cách lạm phát kèm suy thoái xảy ra hoặc làm thế nào để xây dựng lại các giới hạn của các lí thuyết kinh tế hiện có để giải thích hiện tượng này.

Một giả thuyết cho rằng hiện tượng kinh tế này xảy ra khi chi phí dầu tăng đột ngột làm giảm năng lực sản xuất của nền kinh tế. Vào tháng 10 năm 1973, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã ban hành lệnh cấm vận đối với các nước phương Tây. Điều này khiến giá dầu toàn cầu tăng mạnh, do đó làm tăng chi phí hàng hóa và góp phần làm tăng tỉ lệ thất nghiệp. Bởi vì chi phí vận chuyển tăng lên, việc sản xuất sản phẩm và đưa chúng lên kệ trở nên đắt đỏ hơn, giá cả tăng ngay cả khi công nhân đã nghỉ việc.

Một lí thuyết khác chỉ ra là sự kết hợp của sự đình trệ và lạm phát là kết quả của chính sách kinh tế thực hiện kém. Qui định khắc nghiệt của thị trường, hàng hóa và lao động trong một môi trường lạm phát khác được nêu ra là có thể là nguyên nhân của lạm phát kèm suy thoái.

Một số ý kiến chỉ ra rằng các chính sách được đặt ra bởi cựu Tổng thống R. Nixon, có thể đã dẫn đến suy thoái kinh tế năm 1970. Nixon đã áp thuế vào hàng nhập khẩu và đóng băng tiền lương và giá cả trong 90 ngày để nỗ lực ngăn giá cả tăng. Cú sốc kinh tế đột ngột của tình trạng thiếu dầu và tăng giá nhanh đã xảy ra ngay khi các biện pháp kiểm soát của chính phủ được thiết lập dẫn đến hậu quả hỗn loạn kinh tế.

Các nhà kinh tế khác thì chỉ trích ý tưởng về mối quan hệ ổn định giữa lạm phát và thất nghiệp với lí do mọi người chỉ cần điều chỉnh hành vi kinh tế của họ với mức giá tăng hoặc là theo phản ứng hay kì vọng thay đổi chính sách tiền tệ. Do đó, giá cả tăng lên trong nền kinh tế để phản ứng với chính sách tiền tệ mở rộng, tỉ lệ thất nghiệp có thể tăng hoặc giảm bởi những cú sốc trong nền kinh tế.

Trong khi đó, nhà đô thị học và tác giả Jane Jacobs tin rằng để tránh hiện tượng lạm phát kèm suy thoái thì một quốc gia cần cung cấp một động lực để phát triển "các thành phố thay thế nhập khẩu" - đó là các thành phố cân bằng nhập khẩu với việc sản xuất.

Kết luận

Sự đồng tình về lạm phát kèm suy thoái giữa hầu hết các nhà kinh tế, tài chính và các nhà hoạch định chính sách về cơ bản là xác định lại ý nghĩa của thuật ngữ lạm phát trong thời kì của hệ thống tiền tệ và tài chính hiện đại. Mức giá liên tục tăng và sức mua của tiền giảm, tức là lạm phát, chỉ được coi là điều kiện cơ bản, bình thường trong nền kinh tế, xảy ra ngay cả trong thời kì tăng trưởng kinh tế cũng như trong suy thoái.

Các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách thường cho rằng giá sẽ tăng và chủ yếu tập trung vào việc tăng hay giảm lạm phát hơn là bản thân lạm phát. Các giai đoạn gia tăng của lạm phát kèm suy thoái trong những năm 1970 có thể là một ghi chú lịch sử ngày hôm nay nhưng kể từ đó lạm phát kèm suy thoái và mức giá tăng cao theo một nghĩa nào đó tạo nên sự bình thường mới trong thời kì suy thoái kinh tế.

Tại Việt Nam

Áp lực cả ngoài lẫn trong

Kể từ đầu năm đến nay, cứ mỗi lần các tổ chức lớn và uy tín trên thế giới cập nhật các dự phóng kinh tế thì các con số ngày càng xấu hơn. Theo dự phóng kinh tế thế giới của OECD công bố tháng 9, so với hồi tháng 6 thì các nền kinh tế lớn như Mỹ, Trung Quốc, Đức, Nhật Bản, Anh đều có tăng trưởng GDP thấp hơn trong năm 2022. Tăng trưởng kinh tế thế giới nhìn chung đang chậm lại hơn so với dự báo, và rủi ro suy thoái ngày càng hiện rõ hơn với mức giảm ở phần lớn các nền kinh tế trong năm 2023.

Bên cạnh đó, lạm phát trở thành tiêu điểm chính của hầu hết các nền kinh tế khi nó lan rộng, và nhiều khả năng sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao một thời gian trước khi được khuất phục bởi các chính sách. Với tình hình lạm phát và tăng trưởng như vậy thì những quan ngại về tình trạng đình lạm (stagflation) của kinh tế thế giới là điều hoàn toàn có thể hiểu được.

Khi tăng trưởng của kinh tế thế giới chậm đi thì ảnh hưởng của nó đến một nền kinh tế có quy mô xuất nhập khẩu gấp hai lần GDP như Việt Nam là rất đáng kể. Trong trường hợp các đơn hàng bị giảm trong năm 2023 thì thấy rõ nhất là ảnh hưởng đến thị trường lao động, tiêu dùng, và đầu tư. Cụ thể là số việc làm mới sẽ không tăng mà còn có khả năng bị giảm, thu nhập giảm sẽ ảnh hưởng đến tiêu dùng và các doanh nghiệp sẽ phải thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh.

Lạm phát kèm suy thoái (Stagflation)

Để ứng phó với lạm phát, chính sách chủ yếu của các ngân hàng trung ương là tăng lãi suất, và thế giới lo ngại một cuộc đua lãi suất mạnh ai nấy chạy mà không có sự trao đổi phối hợp với nhau. Điều này khiến cho tác động lây lan trở nên nghiêm trọng hơn và hệ lụy là hiện tượng xuất khẩu và nhập khẩu lạm phát.

Mặc dù lạm phát của Việt Nam vẫn trong tầm kiểm soát nhưng áp lực tăng lãi suất của thế giới cũng buộc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra một số giải pháp thích ứng. Như vừa qua, các lãi suất điều hành như thị trường mở (OMO), chiết khấu, tái cấp vốn đều tăng, riêng lãi suất OMO có mức tăng đáng kể từ cuối tháng 7 đến nay.

Cần chuẩn bị từ trước và chuẩn bị nhiều hơn

Theo báo cáo điều tra xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quí 3-2022 của TCTK, có 48,1% doanh nghiệp lo lắng về sự sụt giảm nhu cầu trong nước, 30,8% doanh nghiệp khó khăn về tài chính và 23,5% gặp khó khăn do lãi suất vay vốn cao. Tuy nhiên, đây là khảo sát của quí 3 nên so với thời điểm hiện tại thì đã có một độ trễ nhất định và các thông tin số liệu mới bi quan hơn chưa được cập nhật.

Với áp lực lãi suất có thể còn tăng tiếp, những doanh nghiệp hiện đang khó khăn về tài chính hay tiếp cận vốn vay thì khó khăn sẽ còn tăng nhiều. Việc cần làm đối với các doanh nghiệp là cân đối lại các khoản nợ, xem xét kỹ lưỡng các dự án sản xuất kinh doanh mới và cắt giảm các hoạt động chưa hay không hiệu quả. Một minh chứng cho thấy rõ là rất nhiều doanh nghiệp “đốt tiền” để tạo tăng trưởng đã bị kiệt sức trong thời gian qua, và chắc chắc sẽ khó trụ được trong thời gian tới.

Việc cần làm đối với các doanh nghiệp là cân đối lại các khoản nợ, xem xét kỹ lưỡng các dự án sản xuất kinh doanh mới và cắt giảm các hoạt động chưa hay không hiệu quả.

Với nhiều khả năng tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ chậm lại trong năm 2023 thì ảnh hưởng đến Việt Nam cũng rất đáng kể. Việc theo dõi sát sao các chỉ số kinh tế quan trọng là hết sức cần thiết để có những chính sách điều chỉnh thích ứng kịp thời. Chẳng hạn, doanh nghiệp cần theo dõi chỉ số tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ qua các tháng và chỉ số quản lý thu mua (PMI).

Việc phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh trong thời gian tới sẽ khó khăn và đắt đỏ hơn, và do đó cố gắng duy trì quy mô như hiện tại, tập trung vào các khách hàng hiện có là chiến lược mà các doanh nghiệp nên ưu tiên. Lịch sử của các chu kỳ kinh tế đã cho thấy những doanh nghiệp nào trụ vững được qua giai đoạn khó khăn thì sức bật sau đó của các doanh nghiệp này là rất lớn.

Tuy vậy, không ai có thể đoán trước được điều gì sẽ xảy ra trong tương lai. Các dự báo về kinh tế bi quan hơn thì cũng có thể sẽ lạc quan hơn nếu có những thay đổi tích cực, chẳng hạn như hiệu quả của chính sách chống lạm phát của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) hay các ngân hàng trung ương khác, một kết thúc có hậu từ cuộc chiến Nga – Ukraine, và Trung Quốc có thể vực dậy được nền kinh tế của mình.

Theo dõi 24HMoney trên GoogleNews

Từ khóa liên quan

Bấm vào mỗi từ khóa để xem bài cùng chủ đề

Theo dõi người đăng bài

Đoàn Ngọc Thao Pro

Tiếp cận các chuyên gia VIP/PRO hàng đầu của 24HMONEY

Nhận ngay bài viết tài chính chuyên sâu

Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?

Liên hệ 24HMONEY ngay

Cảnh báo Nhà đầu tư lưu ý
Cảnh báo
Cơ quan chủ quản: Công ty TNHH 24HMoney. Địa chỉ: Tầng 5 - Toà nhà Geleximco - 36 Hoàng Cầu, P.Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Hà Nội. Giấy phép mạng xã hội số 203/GP-BTTTT do BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG cấp ngày 09/06/2023 (thay thế cho Giấy phép mạng xã hội số 103/GP-BTTTT cấp ngày 25/3/2019). Chịu trách nhiệm nội dung: Phạm Đình Bằng. Email: support@24hmoney.vn. Hotline: 038.509.6665. Liên hệ: 0908.822.699

Điều khoản và chính sách sử dụng



copy link
Quét mã QR để tải app 24HMoney - Giúp bạn đầu tư an toàn, hiệu quả