Kinh tế bất ổn, vàng có còn là nơi trú ẩn an toàn?
Vàng đã trở thành một thứ tài sản kinh tế theo chu kỳ khác, không còn là điềm báo về sự sụp đổ của kinh tế và xã hội nữa.
Tờ viettimes có bài viết, vàng không còn là nơi trú ẩn an toàn trong những giai đoạn kinh tế bất ổn. Cụ thể, giá vàng giảm khi lãi suất tăng. Đó là do bản thân vàng không sinh ra lợi suất, bởi vậy khi lãi suất cao hơn, chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng đắt đỏ hơn. Nếu xét về vấn đề này, vàng cũng giống như nhiều tài sản khác, như tiền mã hoá, các công ty công nghệ và bất động sản.
Giá vàng cũng tăng khi nhu cầu vàng, như một thứ hàng hoá, tăng. Bởi vậy, nếu nói Trung Quốc trở thành một thế lực kinh tế toàn cầu lớn, nền kinh tế Trung Quốc sẽ cần có thêm vàng, chỉ vì nhu cầu sử dụng hàng hoá của họ, và điều đó sẽ làm tăng giá vàng, giống như từng diễn ra vào năm 2002. Ngoài ra còn phải kể đến nhu cầu vàng trang sức khá cao của Ấn Độ, bởi vậy khi quốc gia này trở nên giàu có hơn, nhu cầu vàng tăng và gây áp lực cho giá vàng.
Theo cả hai cơ chế trên, vàng không còn là nơi trú ẩn an toàn trong những thời điểm tồi tệ, bởi nó tương quan với cả lãi suất thấp lẫn đà tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Vàng đã trở thành một thứ tài sản kinh tế theo chu kỳ khác, và đó là lý do vì sao mà giá vàng không còn được theo dõi sát sao như trước kia hay được xem như điềm báo về sự sụp đổ của xã hội và kinh tế nữa. Thay vào đó, việc giá vàng tăng hoặc ở mức cao cũng hoàn toàn bình thường.
Giá vàng dường như diễn biến rất kịch tính trong những năm xung quanh 1980 bởi các thị trường và giá cả bị dồn nén trong quá lâu trong những năm trước đó. Bởi vậy, vào thời điểm đó rất khó để biết được vàng có thực sự đáng giá hay không bởi rất nhiều mức giá chưa được thử nghiệm nhiều trên các thị trường, và bằng các quy trình thị trường để thử sai và khám phá giá trị.
Có một bài học sâu sắc hơn ở đây, có lẽ là liên quan tới cả tiền mã hoá. Nếu chính phủ các nước muốn bình thường hoá một loại tài sản và việc định giá chúng, họ thường phải "ngó lơ" chúng một thời gian và đơn giản là để cho thời gian trôi qua.
Một bài học khác là, lịch sử gần đây về giá vàng không báo hiệu tốt cho sự tái thiết của một bản vị vàng trong tương lai. Trong số tất cả bản vị vàng, thì bản vị vàng do Anh đưa ra vào thế kỷ 19 mang lại một số hiệu quả kinh tế vĩ mô tương đối tốt. Thế nhưng, thế giới hiện đại lại có nhiều đặc điểm rất khác biệt. Vào thế kỷ 19, tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi rất chậm, và nhu cầu vàng như một loại hàng hoá khá ổn định, từ đó khiến cho giá vàng cũng ổn định.
Mới đây hơn, các nền kinh tế như Trung Quốc đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, từ đó khiến giá hàng hoá tăng mạnh (và đôi lúc giảm). Ví dụ, giai đoạn 2002-2012 giá vàng tăng (hơn 4 lần) sẽ gây ra sức ép giảm phát nhiều hơn đối với nền kinh tế toàn cầu. Nếu giá của một đơn vị vàng được cố định, giống như trong một bản vị vàng, thì giá trị tương đối của vàng tăng lên có nghĩa là tất cả các loại giá khác và tiền lương sẽ phải điều chỉnh giảm, một kịch bản kinh tế vĩ mô nguy hiểm.
Những thay đổi lớn về giá trị tương đối của vàng sẽ là thảm hoạ dưới chế độ bản vị vàng, nhưng dưới hiện trạng thì không có gì đáng quan ngại. Vàng, giống như nhiều loại hàng hoá khác, có nguồn cung tương đối ít co giãn trong ngắn hạn. Điều đó có nghĩa rằng nếu nhu cầu tăng, phải mất một khoảng thời gian trước khi nhiều vàng hơn được đưa vào thị trường.
Trong khoảng thời gian đó, giá vàng có thể tăng mạnh, cũng giống như lúc giảm mạnh khi nhu cầu thấp. Nhưng cả hai trường hợp giá vàng này đều không nói lên quá nhiều về tiến trình tương lai rộng lớn hơn của lịch sử thế giới.
Các nhà bình luận về thị trường tài chính thường thích nhấn mạnh về những điều bí ẩn, bong bóng đầu cơ và các vụ sập. Nhưng đôi khi thực tế còn phũ phàng hơn, và chúng ta có thể thấy điều đó xảy ra cả với vàng. Điều này nghe có vẻ gây sốc và trái ngược, nhưng lại đúng trong thế giới kinh tế./.
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận