24HMoney
Install 24HMoneyTải App
copy link
menu
Ái Vy
24HMoney đã kiểm duyệt 24HMONEY đã kiểm duyệt

Giải bài toán thiếu hụt điện (Kỳ I): Nguy cơ ngay từ năm 2020

Hàng loạt dự án nguồn điện lớn bị chậm tiến độ đang đưa hệ thống điện quốc gia vào tình thế vận hành trong tình trạng hầu như không còn nguồn dự phòng.

Trái với dự báo của cơ quan chức năng, chuyên gia cho rằng nguy cơ thiếu điện năm tới là rất cao do cao điểm mùa khô 2019 ghi nhận công suất đầu nguồn đã chạm "ngưỡng” an toàn.

Theo Bộ Công Thương, năm 2020 cơ bản sẽ đáp ứng được điện cho sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trong giai đoạn năm 2021 đến năm 2025, Việt Nam sẽ đối mặt với giai đoạn khó khăn, có những năm có thể thiếu lên đến 7-8 tỷ Kwh điện. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng, thiếu nguồn điện có thể xảy ra sớm hơn.

Hàng loạt dự án chậm tiến độ

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng khó khăn này có nhiều. Một trong nguyên nhân lớn là do cả loạt dự án điện chậm tiến độ.

Tại bản Báo cáo gần đây nhất về tình hình thực hiện các dự án điện trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh của Ban Chỉ đạo Quốc gia về Phát triển Điện lực cho thấy, rất nhiều dự án nguồn điện lớn bị chậm tiến độ. Với hơn 17.000MW công suất nguồn điện bị thiếu hụt trong các năm từ 2018-2022, dẫn đến hệ thống điện quốc gia đang phải vận hành trong tình trạng hầu như không còn nguồn dự phòng.

Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng khẳng định, nếu các nhà máy điện đang chậm tiến độ vẫn tiếp tục chậm và không thể hoàn thành, công tác sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả không được triển khai thực chất, khả năng thiếu điện sẽ bắt đầu từ năm 2021.

“Năm thiếu điện cao điểm nhất là năm 2022. Đấy là chưa kể tốc độ tăng trưởng phụ tải có thể tăng cao hơn so với dự báo của chúng ta. Dự báo của chúng ta mới đưa ra tăng trưởng đến năm 2025 chỉ khoảng 9% thôi và sau năm 2025 là khoảng 8%. Nhưng nếu nền kinh tế của chúng ta phát triển mạnh mẽ hơn, rồi nhu cầu điện của chúng ta tăng cao hơn, rồi các nhà máy điện nhất là các nhà máy điện ở hai trung tâm khí lớn là Ô Môn và khu vực miền Trung, ở Dung Quất và Chu Lai vào chậm thì khả năng thiếu điện còn trầm trọng hơn..”, Thứ trưởng Hoàng Quốc Việt nhấn mạnh.

Thuỷ điện về mức "chết"

Đáng lưu ý, hệ thống điện hiện nay đang huy động khoảng 40% sản lượng từ thủy điện - nguồn điện được cho là “sạch” và có giá thành thấp nhất trong hệ thống điện hiện nay, chỉ bằng một nửa, thậm chí là 1/6 đơn giá một kWh điện được sản xuất từ các nguồn nguyên liệu khác.

Thế nhưng, khô hạn diễn ra gần như cả năm 2019 và dự báo còn tiếp tục khô hạn cả mùa khô năm tới trên cả nước, đặc biệt là ở khu vực miền Bắc và miền Trung - nơi có các nhà máy thủy điện lớn cỡ “nghìn MW” như Sơn La, Hòa Bình, Lai Châu - trong bối cảnh các hồ chứa thủy điện “đa mục tiêu này” này còn nhiệm vụ xả nước phục vụ gieo cấy vụ Đông Xuân ngay từ đầu năm tới.

Hồ thủy điện Hòa Bình - bậc thang cuối cùng của hệ thống sông Đà, nằm bên dưới các hồ thủy điện Lai Châu và Sơn La - hiện đang thấp hơn mực nước dâng bình thường khoảng 15m (tương ứng thiếu hụt khoảng 3 tỷ kWh điện), trong khi đó, hàng ngày hồ chứa thủy điện này vẫn đang phải đảm bảo dòng chảy về hạ du với lưu lượng tối thiểu 400 m3/giây để cấp nước sinh hoạt cho Thành phố Hà Nội. Hồ Hòa Bình cũng đang đồng thời phải tích nước để chuẩn bị 3 đợt xả lớn, phục vụ đổ ải, gieo cấy vụ Đông Xuân đầu năm tới.

Ông Nguyễn Văn Minh, Giám đốc Công ty Thủy điện Hòa Bình cho biết, doanh nghiệp hiện huy động tùy theo phụ tải trong ngày để đảm bảo làm sao mức nước ở hạ lưu được duy trì khoảng trên 10m.

“Tùy theo thời điểm chúng tôi huy động từ 3 đến 4 tổ máy. Nếu mà chạy máy chạy đầy tải (đủ 8 máy) thì khả năng huy động một ngày là 46 triệu kWh/ngày nhưng hiện nay việc huy động để đảm bảo giữ nước được nên chúng tôi huy động khoảng 11 triệu kWh/ngày. Có nhiều thời điểm chúng tôi cũng vẫn đang phải huy động cao hơn để đáp ứng được mức nước hạ lưu cho các nhà máy nước ở dưới lấy nước…”, ông Minh chia sẻ.

Hơn 20% công suất chạy máy từ Thủy điện Hòa Bình ở thời điểm hiện tại phần nào nói lên công suất khả dụng, tới ngưỡng của nguồn thủy điện nói riêng, các nguồn điện trên hệ thống điện Việt Nam nói chung - khi khả năng vận hành không chỉ phụ thuộc vào thiết kế, năng lực, tuổi thọ của nhà máy, mà còn là vấn đề của nguồn nguyên/nhiên liệu đầu vào để làm ra điện.

Như vậy, nếu xả hơn 4 tỷ m3 nước từ các hồ chứa thủy điện miền Bắc vào tháng 1 và tháng 2/2020 cho sản xuất nông nghiệp mà thời tiết vẫn tiếp tục khô hạn, không có lũ về đúng như dự báo “khô hạn kéo dài cả mùa khô năm sau”, khi đó, lượng điện có thể huy động được từ khoảng 6.000MW công suất nguồn thủy điện ở miền Bắc sẽ rất hạn chế.

Ông Nguyễn Đức Cường, Giám đốc Trung tâm Điều độ Hệ thống điện quốc gia (A0) cho biết, diễn tiến nước thì không có sự cải thiện và với những thông tin nước vào như hiện nay thì nó sẽ về mức nước chết sớm của các hồ lớn là Sơn La và Hòa Bình. “Đã về mức nước chết thì các tổ máy sẽ chạy theo có nước về, tức là có từng nào thì chạy cân bằng từng đó, nghĩa là ở mức độ rất hạn chế…”, ông Cường cho biết.

Điện than, điện dầu nhiều nguy cơ

Trong khi đó, Cục trưởng Cục Điều tiết Điện lực Nguyễn Anh Tuấn khẳng định, cơ quan quản lý Nhà nước đã lên các kịch bản đảm bảo điện, kể cả phương án “xấu” nghĩa là phụ tải ở mức cao, sẽ phải huy động tối đa các nguồn phát điện hiện có.

Thế nhưng, nguồn nhiên liệu để đáp ứng cho việc huy động cao các nguồn điện than, điện khí cũng không hề dễ dàng. Hiện, năng lực sản xuất than của cả Tập đoàn CN Than - Khoáng sản Việt Nam và Tổng Công ty Đông Bắc dự kiến chỉ đạt 2/3 nhu cầu than cho sản xuất điện trong năm 2020, cụ thể, 2 doanh nghiệp này chỉ cung cấp được hơn 48 triệu tấn trong khi nhu cầu than năm 2020 lên tới 66 triệu tấn.

“Không riêng gì thủy điện mà sang năm 2020 này thì tình hình cung cấp điện còn nhiều khó khăn do chúng ta còn có hạn chế trong việc cung cấp các nguồn nhiên liệu đầu vào ví dụ nhưu than, khí.. Bộ Công Thương cũng đã chỉ đạo các đơn vị như là Tập đoàn CN Than - Khoáng sản Việt Nam, Tổng Công ty Than Đông Bắc, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam có các giải pháp để đảm bảo cung cấp nhiên liệu và đặc biệt là cũng sẽ xem xét vấn đề nhập khẩu than cho các nhà máy điện để phục vụ cho phát điện…”, ông Nguyễn Tuấn Anh cho biết.

Nhìn lại năm 2019, mặc dù lên phương án sẽ phải huy động hơn 2,5 tỷ kWh điện từ nguồn chạy dầu có giá thành cao, lên tới gần 6.000 đồng/kWh, song, cùng với tăng cường huy động cao nguồn nhiệt điện than và nhờ vào một số nhà máy thủy điện phía Nam có nước về nên nguồn điện dầu đã giảm bớt, chỉ còn 1,7 tỷ kWh. Cũng từ đó, phương án phải huy động hơn 8 tỷ kWh điện dầu trong năm 2020 được hi vọng sẽ giảm một nửa. Thế nhưng, đó cũng mới chỉ là hi vọng. Nếu thủy điện tiếp tục cạn nước, việc tiếp tục phải huy động tối đa công suất từ các nhà máy điện than hiện hữu mà chưa có nguồn điện mới nào được hoàn thành, đưa vào khai thác, theo các chuyên gia là điều… “hết sức nguy hiểm”.

TS Hà Đăng Sơn - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu năng lượng và tăng trưởng xanh (Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam) tính toán, một năm có 8.760 giờ, việc huy động tới hơn 7.000 giờ từ các nhà máy điện than không chỉ rủi ro cho hệ thống mà việc huy động lượng điện lớn từ nguồn điện dầu cũng ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường, cho dù đó là… “bất khả kháng” để có điện.

“Đối với nhiệt điện thì tất cả các hệ thống đều được thiết kế với một số giờ chạy tối ưu nhất định. Nếu chúng ta để cho hệ thống này nó vận hành như thế thì trước tiên là hiệu suất vận hành chắc chắn là không đạt tối ưu như trong thiết kế. Thứ 2 là yêu cầu về bảo dưỡng sửa chữa nó đảm bảo cho tuổi thọ lâu dài và đồng thời nó duy trì vận hành ở công suất tối ưu, cao nhất. Do đó, nếu lạm dụng nó để chạy trong một thời gian quá dài thì rủi ro có thể rất cao là có thể xảy ra sự cố của hệ thống... và hậu quả rất khó để đánh giá được”, TS Hà Đặng Sơn nói. Đồng thời cho biết hiện các nhà máy điện than gần như bị ngăn cản thì đang có sự thiếu hụt rất lớn.
“Do thiếu nguồn thiết kế từ nhiệt điện than cho nên phải huy động chạy dầu. Và dầu lại cũng chạy giống như là điện than, tức là chạy nền, rõ ràng trong trường hợp này là một sự lãng phí rất là lớn, rất đắt đỏ. Và về mặt môi trường thì nó cũng không kém chút nào cả. Thì theo tôi nghĩ thì đây là sự lựa chọn không hay ho”, TS Hà Đặng Sơn nhấn mạnh.

Nói một cách dễ hiểu, khi hệ thống không còn công suất để dự phòng, khi thủy điện thiếu nước, và những cỗ máy nhiệt điện than chạy liên tục nhiều giờ, chuyên gia lo ngại, chỉ cần bất kỳ một sự cố nào xảy ra đối với nguồn cung cấp khí hay nhà máy nhiệt điện khí sẽ ảnh hưởng lớn tới việc vận hành hệ thống điện.

Bởi thứ nhất, các hồ thủy điện đang “khát” nước, nếu phải tăng cường phát điện từ các nguồn thủy điện cũng đồng nghĩa sẽ ảnh hưởng lớn đến kế hoạch tích nước, không chỉ gây thiếu điện và nước cho hạ du vào những tháng mùa khô tới đây, mà còn nguy cơ cao bất ổn cho cả hệ thống điện quốc gia.

Thứ hai, nguồn phát điện từ khí đốt đang chiếm khoảng 13% công suất và 18% về sản lượng trong cơ cấu nguồn phát của hệ thống điện. Và, thủy điện cũng như nhiệt điện khí đều là những nguồn điện linh hoạt để điều tiết, huy động nhanh trở lại, giúp hệ thống có thể huy động tối đa nguồn điện mặt trời vốn có tính bất định cao, phải phụ thuộc vào nắng. Thế nhưng, việc cung cấp khí cho các nhà máy phát điện trong năm 2019 chỉ đạt khoảng 66% và dự báo sẽ còn khó khăn hơn trong năm 2020 và các năm tiếp theo.

Thực tế, cả nước hiện có khoảng 55.000MW công suất đặt nguồn điện. Cao điểm mùa khô năm 2019 đã ghi nhận có thời điểm công suất đầu nguồn của hệ thống điện toàn quốc đã chạm mốc 37.000 MW. Đây được coi là công suất “khả dụng”, “tới ngưỡng” an toàn, có thể đạt được của hệ thống điện quốc gia.

Có nghĩa là, nếu nhu cầu tiêu dùng điện tiếp tục tăng cao, trong khi thủy điện tiếp tục không có nước về, nhiệt điện khí và than căng thẳng nguồn nhiên liệu và điện mặt trời chỉ huy động được ban ngày, lại phụ thuộc vào số giờ nắng…thì nguy cơ thiếu điện trong năm tới sẽ rất cao.

Theo dõi 24HMoney trên GoogleNews

Từ khóa liên quan

Bấm vào mỗi từ khóa để xem bài cùng chủ đề

Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?

Liên hệ 24HMONEY ngay

Cảnh báo Nhà đầu tư lưu ý
Cảnh báo
Cơ quan chủ quản: Công ty TNHH 24HMoney. Địa chỉ: Tầng 5 - Toà nhà Geleximco - 36 Hoàng Cầu, P.Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Hà Nội. Giấy phép mạng xã hội số 203/GP-BTTTT do BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG cấp ngày 09/06/2023 (thay thế cho Giấy phép mạng xã hội số 103/GP-BTTTT cấp ngày 25/3/2019). Chịu trách nhiệm nội dung: Phạm Đình Bằng. Email: support@24hmoney.vn. Hotline: 038.509.6665. Liên hệ: 0908.822.699

Điều khoản và chính sách sử dụng



copy link
Quét mã QR để tải app 24HMoney - Giúp bạn đầu tư an toàn, hiệu quả