Dư nợ tín dụng và trái phiếu: Đà cản phục hồi thị trường bất động sản trong chu kỳ mới
Thị trường bất động sản sau khi hành lang pháp lý mới được khơi thông với dự kiến cả 3 luật quan trọng là Luật Kinh doanh Bất động sản, Luật Nhà ở và Luật Đất đai sẽ có thể có hiệu lực sớm vào ngày 1/8/2024. Tuy nhiên, để thị trường bất động sản có thể phục hồi và phát triển ổn định trong chu kỳ mới phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, một trong số yếu tố này, theo nhận định của các chuyên gia là làm sao giải được bài toán về giảm dư nợ tín dụng và dư nợ trái phiếu.
Phóng viên đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Sơn Tùng - Chủ tịch Công ty Luật TNHH Legal United Law, kiêm Tổng giám đốc Mua bán nợ Royal Capital Corp về những vấn đề pháp lý bất động sản (BĐS) có liên quan đến dư nợ tín dụng và dư nợ trái phiếu.
PV: Thưa ông, pháp luật chuyên ngành BĐS có quy định gì riêng biệt không cho việc kiểm soát, quản lý về dư nợ tín dụng và trái phiếu đối với các chủ đầu tư dự án BĐS?
Riêng về tỷ lệ dư nợ tín dụng trên số vốn chủ sở hữu, Luật Kinh doanh BĐS có hướng dẫn thực hiện theo quy định của pháp luật về tín dụng, về tỷ lệ dư nợ trái phiếu doanh nghiệp trên số vốn chủ sở hữu thì thực hiện theo quy định của pháp luật về trái phiếu doanh nghiệp (TPDN).
Khi 3 luật được thông qua, nhiều kỳ vọng cho thị trường bất động sản trong chu kỳ mới.
PV: Xin ông cho biết pháp luật hiện nay quy định về kiểm soát nợ trong hoạt động tín dụng của ngành BĐS như thế nào?
Đối với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng: Về tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng là không được vượt quá 15% vốn tự có và tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng, người có liên quan của khách hàng đó không được vượt quá 25% vốn tự có.
Đối với các ngân hàng thương mại, theo Khoản 1, Điều 136 Luật TCTD năm 2024 thì tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó không được vượt quá tỷ lệ và lần lượt theo thời gian, tỷ lệ này được điều chỉnh giảm theo như sau:
(i) Đến trước ngày 1/1/2026: 14% vốn tự có đối với một khách hàng và 23% vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó;
(ii) Từ ngày 1/1/2026 đến trước ngày 1/1/2027: 13% vốn tự có đối với một khách hàng; 21% vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó;
(iii) Từ ngày 1/1/2027 đến trước ngày 1/1/2028: 12% vốn tự có đối với một khách hàng; 19% vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó;
(iv) Từ ngày 1/1/2028 đến trước ngày 1/1/ 2029: 11% vốn tự có đối với một khách hàng; 17% vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó;
(v) Từ ngày 1/1/ 2029: 10% vốn tự có đối với một khách hàng; 15% vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó.
Tỷ lệ giảm bắt buộc theo các mốc thời gian này, theo tôi sẽ giúp cho thị trường tài chính được ổn định về mặt vĩ mô, nhưng rõ ràng đang đẩy áp lực trả nợ về phía khách hàng, trong đó có các chủ đầu tư dự án BĐS.
Ông Nguyễn Sơn Tùng (bên trái) tham gia Tọa đàm “Pháp lý và thị trường bất động sản trong chu kỳ mới” do Câu lạc bộ BĐS TP. Hồ Chí Minh tổ chức.
PV: Tỷ lệ dư nợ vay và kiểm soát nợ vay đối với trái phiếu doanh nghiệp trong ngành BĐS, pháp luật có những quy định như thế nào, thưa ông?
Trong thực tế, với phát hành trái phiếu, nhất là các TPDN riêng lẻ, việc thẩm định và thông qua phương án do nội bộ doanh nghiệp tự thực hiện, còn các công ty chứng khoán hay ngân hàng tham gia dịch vụ tư vấn phát hành, đại lý phát hành. Trước đây, dư nợ trái phiếu không được vượt quá 3 hay 5 lần vốn chủ sở hữu, đấy cũng là hình thức, khó xác định trong thực tế nếu hồ sơ chuẩn bị phát hành thiếu đi yếu tố minh bạch trước đó từ doanh nghiệp và công ty kiểm toán.
Riêng về tỷ lệ cụ thể của dư nợ trái phiếu trên vốn chủ sở hữu, mặc dù Luật Kinh doanh Bất động sản năm 2023 có quy định chung, nhưng hiện nay chưa có quy chi tiết về những tỷ lệ và con số nào. Thực tế do khác về bản chất với nợ ngân hàng, nên với nợ TPDN riêng lẻ, việc quy định một tỷ lệ cụ thể theo tôi là chưa cần thiết vì giá trị của những gói phát hành trái phiếu phụ thuộc vào nhu cầu vốn của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Thông tư số 03/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023 với mục đích nhằm giảm tỷ nợ trái phiếu, cũng đã đưa ra quy định sau 12 tháng kể từ khi bán TPDN chưa niêm yết, tổ chức tín dụng được mua TPDN chưa niêm yết mà tổ chức tín dụng đã bán, hoặc được phát hành cùng cùng đợt phát hành.
PV: Theo ông, dư nợ ngân hàng hiện nay trong ngành BĐS, hay liên quan đến BĐS như những thông tin được thể hiện vào cuối năm 2023 có đáng báo động không?
Tỷ lệ nợ xấu trong những năm gần đây liên tục có chiều hướng tăng, ví như tháng 7/2022 là 1,8%, tháng 7/2023 là 2,58% và dự kiến vào cùng kỳ tháng 7/2024 có thể sẽ ở mức 3% là mức đạt ngưỡng cho phép. Trong các nhóm nợ thì nhóm 4 và nhóm 5 đang tăng nhanh.
Trong quý I và gần hết quý II/2024, dư nợ toàn ngành Ngân hàng tăng trưởng âm. Theo các số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tính đến 29/2/2024, dư nợ tín dụng đối với hoạt động kinh doanh bất động sản đạt gần 1,114 triệu tỷ đồng, tăng hơn 20.700 tỷ đồng so với cuối năm 2023, nghĩa là thêm tương đương tăng 1,86%. trong 2 tháng đầu năm, riêng cho vay kinh doanh bất động sản đã tăng dư nợ thêm ước khoảng hơn 20.000 tỷ đồng.
Dù có những dấu hiệu tích cực trong trong tăng trưởng tín dụng về cho vay của một số ngân hàng trong ngành BĐS, nhưng cá nhân tôi nhận thấy nếu không kéo được dư nợ tín dụng trong toàn ngành xuống, thì con số dư nợ thể hiện đến quý I/2024 là đáng báo động.
Khi Luật Kinh doanh Bất động sản 2023, Luật Nhà ở 2023, Luật Đất đai 2024, Luật Các Tố chức Tín dụng 2024 dự kiến có hiệu lực từ 1/8/2024 sẽ là luồng sinh khí mới cho thị trường bất động sản phục hồi.
PV: Xin ông cho biết, ngân hàng trong hoạt động xử lý nợ, nhận bàn giao tài sản nhằm giảm dư nợ tín dụng có được coi là hoạt động kinh doanh BĐS ngoài ngành của ngân hàng hay không?
Ngoài ra, tại Khoản 3, Điều 1 của Luật Kinh doanh Bất động sản cũng có quy định sẽ không điều chỉnh đối với trường hợp tổ chức tín dụng, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của tổ chức tín dụng, công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam về các tổ chức tín dụng bán nhà ở, công trình xây dựng, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển nhượng dự án bất động sản đang được dùng bảo lãnh, thế chấp để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật về các tổ chức tín dụng và pháp luật có liên quan về xử lý tài sản bảo đảm.
PV: Ông đánh giá như thế nào về khả năng tiếp cận nguồn vốn của các chủ đầu tư dự án từ các tổ chức tín dụng trong nước sau khi Luật Các tổ chức tín dụng có hiệu lực?
Khó có thể tiếp cận được nguồn vốn lớn cho đầu tư, phát triển dự án như những gì đã xảy ra trong 2 năm vừa qua, thì các rào cản và trở ngại về pháp lý lẫn các quy định trong cho vay, giải ngân tín dụng đối với dự án vẫn còn nguyên bế tắc, dù rằng lãi suất cho vay có giảm hay các chỉ thị của Chính phủ trong việc kéo giảm lãi suất nhằm kích cầu cho để tăng trưởng co vay tín dụng.
Tuy nhiên, với các dự án đủ điều kiện giải ngân, hay với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản đủ điều kiện để được vay, các quy định này theo thời gian đã không được gỡ bỏ, lại còn quy định chặt chẽ hơn trong Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024.
Trường hợp Chính phủ và các tổ chức tín dụng có thể “tạm chưa cho áp dụng” một số các điều kiện quá chặt chẽ trong giải ngân khoản vay cho chính dự án, cho doanh nghiệp phát triển dự án, lẫn cho người mua các sản phẩm BĐS trong một khoản thời gian nhất định. Ví như trong 2 năm đầu kể từ ngày Luật TCTD có hiệu lực, thì khi ấy khả năng về tiếp cận, hấp thụ nguồn vốn của các doanh nghiệp kinh doanh BĐS theo đó sẽ có tín hiệu sáng sủa hơn.
PV: Cùng với Luật Kinh doanh Bất động sản 2023, Luật Nhà ở 2023, Luật Đất đai 2024 thì Luật Các Tố chức Tín dụng 2024 dự kiến cũng sẽ có hiệu lực vào ngày 1/8/2024 tới đây, ông có thể nhận định, với các luật này có dấu hiệu tích cực gì hay không cho việc giảm dư nợ tín dụng và dư nợ trái phiếu?
Đồng thời, Nghị định quy định về đăng ký thế chấp đối với quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai của khoản nợ có nguồn gốc từ khoản nợ xấu.
Ngoài ra, Nghị định quy định về đăng ký biến động đất đai đối với tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của khoản nợ có nguồn gốc từ nợ xấu. Hiện các văn này đã hoàn thiện tờ trình và các dự thảo đang trình Chính phủ.
Tôi đánh giá, dư nợ tín dụng trong toàn ngành BĐS sẽ được kéo giảm trước so với dư nợ trái phiếu doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng. Các ngân hàng sẽ nắm giử vai trò tích cực trong hoạt động mua trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết theo Thông tư số 03/2023/TT-NHNN.
PV: Xin cảm ơn ông!
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận