Chuyển đổi số thúc đẩy hình thành giá trị mới
Tiến trình chuyển đổi số đã giúp mở rộng được không gian xã hội mới (metaverse) và hình thành những cách thức phối hợp xã hội mới (không gian lai) cho phép chúng ta vượt qua được những giới hạn mà Stewart Wallis gọi là “giới hạn sinh thái cơ bản” của loài người.
Và cũng như Stewart Wallis đã chỉ ra: “Dù bằng cách nào chúng ta vẫn phải đối mặt với sự thay đổi hệ thống bao trùm. Đã có nhiều giải pháp tiềm năng nhưng liệu các giải pháp đó có được áp dụng hay không sẽ phụ thuộc cơ bản vào các giá trị...
Giá trị cho chúng ta một đích đến rõ ràng – cái gọi là “Chính Bắc” (True North) – và phương tiện đi đến đó.” Và chúng ta có thể thấy, tiến trình chuyển đổi số tạo ra những không gian phát triển mới cho các công nghệ số và dữ liệu số tạo nên vòng xoắn (cycloid) phát triển cho phép NHÚNG GIÁ TRỊ vào không chỉ công nghệ mà còn mọi vật chất hữu hình và nhân tạo để hình thành nên các giá trị mới – giá trị mặc định (default value). Nền tảng quan trọng nhất để có thể hiểu được khái niệm này đó là sự mở rộng của tập giá trị vào việc lấy con người làm trung tâm và tạo nên một sự kết hợp hài hòa giữa con người và máy móc để tạo nên một sự phát triển hài hòa, cho phép con người thích ứng hiệu quả với môi trường tự nhiên-xã hội-con người, để duy trì và phát triển không ngừng sự thịnh vượng của con người.
Thông qua cơ chế thu hẹp khoảng cách giữa thế giới ảo và thế giới thực để mở rộng tối đa không gian phát triển và hình thành nên những cơ chế định hướng theo mục tiêu để tạo ra và gia tăng các giá trị dựa trên nền tảng dữ liệu và thông qua quá trình vốn hóa dữ liệu. Tiến trình vốn hóa dữ liệu đã hình thành nên các nguồn tài nguyên mới với dữ liệu là nền tảng căn bản đã giúp con người có thể chủ động đề xuất được những giải pháp phát triển mới vượt qua những giới hạn của một nền kinh tế dựa trên sự khan hiếm, chuyển sang một nền kinh tế dựa trên sự dư thừa, điều này đã làm thay đổi hoàn toàn cách thức con người hình thành nên giá trị, từ khai thác tối ưu sang kết hợp tối ưu.
Sự đột phá và công nghệ số và dữ liệu số đã cho phép hình thành nên những giao thức tín nhiệm, giúp con người có thể làm chủ không gian xã hội mới đang được mở rộng ra vô tận, cùng với cách thức phối hợp xã hội mới để chủ động định hình những chiến lược phát triển mới, trong đó, con người thay vì bị hạn chế bởi sự tụt hậu của các thể chế lỗi thời sang những thể chế có khả năng thích ứng hiệu quả trên nền tảng (platform) cho phép tạo ra không ngừng những cách thức giao dịch mới.
Giá trị mặc định (default value)
Việc chuyển từ tư duy tương tự (analog thinking) sang tư duy số (digital thinking) đã tạo ra một cuộc cách mạng tư duy về giá trị. Một điều hết sức phổ biến và tất yếu, nhưng lại không được biết và hiểu một cách phổ biến, đó là nền tảng căn bản của giá trị bắt nguồn và phụ thuộc vào văn hóa. Chính văn hóa đã kiến tạo nên giá trị, để từ đó thúc đẩy những tư duy về giá trị để đi đến những hành động mang/tạo ra giá trị. Nền tảng văn hóa của xã hội loài người không thay đổi, nó vẫn tiếp tục hành trình phát triển của mình, điều thay đổi quan trọng ở đây, là cái cách chúng ta tư duy, để mở rộng không gian và chuyển đổi (transform) tư duy về giá trị sang một phổ giá trị rộng hơn, từ đó hình thành những hành động mang/tạo ra giá trị mới. Giá trị mặc định (default value) vốn vẫn tồn tại từ đầu với những nền tảng văn hóa kiến tạo giá trị của xã hội loài người, nhưng với tư duy số (digital thinking), giá trị mặc định đã được mở rộng và trở thành cấu phần giá trị lớn nhất cho phép thúc đẩy vòng tròn giá trị của xã hội loài người:
+ Đặc điểm đầu tiên tạo nên giá trị mặc định của giá trị chính là độ phổ rộng của tính phổ quát của một giá trị cụ thể. Độ phổ rộng này càng lớn, giá trị mặc định của giá trị cụ thể đó càng cao. Nhờ chuyển đổi sang tư duy số, khi thế giới tương tự cùng soi chiếu về giá trị qua một “tấm gương số” đã giúp cho mở rộng độ phổ rộng này khỏi những giới hạn về mức độ tương tác giữa các chủ thể tương tự, sang đồng thời, có tính kết nối cao, lan rộng với các rào cản được giảm thiểu tối đa và được đồng hóa thuận lợi nhờ chung “ngôn ngữ số”.
+ Đặc điểm thứ hai tạo nên giá trị mặc định của giá trị là tính hoán chuyển của một giá trị cụ thể. Tính hoán chuyển giá trị cụ thể này càng cao thì giá trị mặc định của giá trị cụ thể đó càng cao. Nhờ việc đồng “ngôn ngữ số” đã tạo ra một cơ sở “trao đổi” thuận lợi hóa tối đa cho việc hoán chuyển các giá trị, và do vậy, giúp cho những giá trị cụ thể có tính phổ quát càng cao càng dễ dàng hóa chuyển và làm gia tăng giá trị mặc định của giá trị này thông qua “tiềm năng giao dịch” của giá trị.
+ Đặc điểm thứ ba tạo nên giá trị mặc định của giá trị là tính phương thức của một giá trị cụ thể. Tính phương thức của một giá trị cụ thể được biểu hiện qua việc giá trị đó được chọn làm phương thức để thúc đẩy việc kiến tạo, hoàn thành và đưa đến hiệu quả của giao dịch. Giá trị đó được chọn làm định chuẩn để thể chế hóa được tiến trình giao dịch và cho phép tạo ra một sự đảm bảo giá trị cho giao dịch nhờ năng lực hấp thụ giá trị của giao dịch đó.
Tạo dựng nền tảng để đồng thuận
Động lực quan trọng cho các giao dịch được thực hiện và thúc đẩy bởi tiến trình thể chế hóa đó chính là việc tạo được sự đồng thuận giữa các bên liên quan trong việc giao dịch để hình thành, hoàn thành và đưa đến hiệu quả. Sự đồng thuận đạt được dựa trên bốn nền tảng quan trọng: i) trước hết là phải tạo ra được sự hài hòa về lợi ích giữa các bên liên quan đến giao dịch; ii) giảm thiểu sự bất đối xứng dữ liệu, thông tin và tri thức giữa các bên liên quan đến giao dịch; iii) gia tăng tối ưu các bên liên quan đến giao dịch để đảm bảo tối ưu hóa được giá trị và lợi ích của giao dịch; iv) tạo dựng được một nền tảng (platform) như phương tiện cho phép các bên đạt được đồng thuận. Công nghệ số và dữ liệu số đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy những nền tảng này.
+ Công nghệ số và dữ liệu số đã cho phép hình thành không gian xã hội mới (metaverse) trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa con người và máy móc, hình thành nên một phương thức phát triển hài hòa, đi cùng với sự hình thành cách thức phối hợp xã hội mới, tạo nên khả năng thích ứng với thời gian thực, giúp các bên liên quan có thể đồng hiệu chỉnh quyết định, tạo nên nền tảng cho việc nhúng giá trị vào thế giới tương tự trên cơ sở đồng thuận về lợi ích.
+ Công nghệ số và dữ liệu số đã cho phép thu hẹp khoảng cách giữa không gian thực-ảo, tạo nên sự khớp nối hiệu quả tương tự-số (analog-digital) thành một thể phức hợp hệ thống, đồng bộ, cộng hưởng, cho phép vượt qua những trở ngại về sự không chắc chắn thông qua định hướng mục tiêu linh hoạt theo dữ liệu được cập nhật theo thời gian thực, giúp cho các bên liên quan chủ động trước sự không chắc chắn bằng sự hỗ trợ của máy móc, tạo cơ chế cho việc nhúng giá trị vào thế giới tương tự trên cơ sở đồng thuận về sự bình đẳng tương đối trong việc tiếp cận dữ liệu, thông tin, tri thứ và một sự không chắc chắn có thể chấp nhận được.
+ Công nghệ số và dữ liệu số đã cho phép chuyển hóa dữ liệu thành những nguồn tài nguyên mới, tạo thành nguồn năng lượng mới trong một không gian vô tận, duy trì vòng xoáy phát triển có thể gia tăng một cách ổn định, cùng với năng lực có thể thiết lập nhanh chóng thiết lập những trạng thái mới trước những sự hỗn loạn, giúp cho các bên liên quan đồng thời thiết lập các chỉ thị đến toàn bộ hệ thống, tạo ra cách thức cho việc nhúng giá trị vào thế giới tương tự nhờ sự đồng thuận nhanh chóng và việc điều chỉnh các bên tham gia vào giao dịch, cho phép tối ưu hóa được giá trị và lợi ích từ các giao dịch.
+ Công nghệ số và dữ liệu số đã cho phép phát triển các giao thức tín nhiệm, trên cơ sở định hình được các chiến lược hành động cụ thể trong mỗi cảnh huống, giúp cho các bên liên quan kiến tạo nên được những tài sản số, thanh khoản số, và mặc định số hình thành nên một hệ thống kinh tế dựa trên bản vị (token) tạo ra những phương tiện nhúng giá trị vào mọi vật thể, mọi sản phẩm-dịch vụ hữu hình, vô hình thông qua sự đồng thuận được hỗ trợ bởi nền tảng (platform) và cơ chế vận hành theo nền tảng.
Hệ thống kinh tế dựa trên bản vị
Đó là một hệ thống kinh tế dựa trên ba trụ cột chính là tài sản số, thanh khoản số và mặc định số với những đặc trưng căn bản:
+ Hệ thống kinh tế dựa trên năng lực nhúng giá trị vào mọi vật thể, mọi sản phẩm-dịch vụ hữu hình và vô hình;
+ Được định hướng hoạt động trên nền tảng tư duy số;
+ Được vận hành hoạt động dựa trên các giao thức tín nhiệm;
+ Mục tiêu là gia tăng khả năng kiến tạo ra các giá trị mới vô tận;
+ Khả năng hấp thụ giá trị hình thành từ các giao dịch;
+ Với chiến lược vốn hóa dữ liệu hiệu quả để không ngừng tạo ra các nguồn tài nguyên mới.
Vận hành một nền kinh tế số
Trên một hệ thống kinh tế dựa trên bản vị sẽ hình thành nên một nền kinh tế số, đó là một nền kinh tế được vận hành theo các nguyên tắc căn bản:
+ Hình thành nên giá trị dựa trên nền tảng vốn dữ liệu làm nền tảng;
+ Giá trị được hình thành được dựa trên cơ chế nền tảng giúp hình thành cách thức giao dịch mới giúp giảm thiểu các trở ngại và tối đa hóa các giao dịch được thực hiện, hoàn thành và đưa đến hiệu quả;
+ Giá trị được gia tăng nhờ sự đột phá năng suất thông qua các hoạt động kinh tế số;
+ Mục tiêu là tối ưu hóa giá trị đạt được từ mỗi giao dịch để tạo ra tổng giá trị tối ưu của toàn nền kinh tế;
+ Trọng tâm là phải đảm bảo kết nối hiệu quả để tiến trình vốn hóa dữ liệu được đảm bảo tốt nhất;
+ Với chiến lược chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng tập trung vào gia tăng khối lượng các sản phẩm dịch vụ được tiêu dùng để tạo nên giá trị tăng trưởng, sang gia tăng giá trị thu được từ mỗi giao dịch sản phẩm-dịch vụ tối ưu để tạo nên tăng trưởng.
Theo dõi người đăng bài
Tiếp cận các chuyên gia VIP/PRO hàng đầu của 24HMONEY
Nhận ngay bài viết tài chính chuyên sâu
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận