Cập nhật diễn biến thị trường tài chính tiền tệ tháng 5
Rủi ro gia tăng đã tác động mạnh đến thị trường tài chính tiền tệ. Trong số các đồng tiền chủ chốt, top 3 mất giá nhiều nhất so với USD là GBP, CNY và KRW. Dòng tiền cũng dịch chuyển mạnh sang kênh trái phiếu khiến lợi tức trái phiếu Chính phủ Mỹ, Đức, Nhật, Anh, Úc đều đồng loạt giảm mạnh.
Báo cáo thị trường tài chính tiền tệ tháng 5/2019 do Bộ phận Phân tích và Tư vấn đầu tư Khách hàng Cá nhân thuộc Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn (SSI) vừa công bố cho thấy:
Trên thị trường tiền tệ, tháng 5 là tháng có nhiều biến động, rủi ro gia tăng trên phạm vi toàn cầu. Nổi lên là căng thẳng thương mại Mỹ - Trung; sự bế tắc và chia rẽ sâu sắc hơn trong lòng châu Âu sau quyết định từ chức của Thủ tướng Anh và kết quả bầu cử Nghị viện châu Âu với sự nổi lên của các đảng cực hữu…
Rủi ro gia tăng đã tác động mạnh đến thị trường tài chính tiền tệ. Trong số các đồng tiền chủ chốt, top 3 mất giá nhiều nhất so với USD là GBP, CNY và KRW. Dòng tiền cũng dịch chuyển mạnh sang kênh trái phiếu khiến lợi tức trái phiếu Chính phủ Mỹ, Đức, Nhật, Anh, Úc đều đồng loạt giảm mạnh.
Chịu tác động của diễn biến quốc tế, tỷ giá giao dịch USD/VND tháng qua dao động khá mạnh, kết thúc tháng tăng thêm 130 đồng/USD ở chiều mua vào và 150 đồng/USD ở chiều bán ra trên ngân hàng, lên mức 23.360/23.480 đồng/USD; và tăng thêm 90 đồng/USD trên thị trường tự do lên mức 23.415/23.430 đồng/USD. Như vậy chỉ trong vòng 1 tháng, VND đã giảm giá -0,6% so với USD, một biến động tương đối lớn sau 4 tháng ổn định nhưng vẫn ít hơn sự mất giá của hầu hết các đồng tiền trong khu vực như Trung Quốc, Malaysia, Singapore, Philippines…
Trong tháng 5, tỷ giá trung tâm cũng tăng thêm 37đ/USD, tương đương 0,16% MoM. Mức tăng tổng cộng đến nay là 1,05%, đảm bảo biên độ đủ rộng cho biến động tỷ giá. Qua đó thể hiện sự chủ động của NHNN trong việc điều hành tỷ giá khi thị trường chịu tác động bởi các yếu tố khó lường từ bên ngoài.
Một diễn biến đáng chú ý khác là việc Việt Nam lọt vào danh sách đối tác thương mại cần giám sát của Mỹ cùng với 8 quốc gia khác nhưng hiện chưa có nước nào bị coi là thao túng tiền tệ. Việc Mỹ hạ các tiêu chuẩn đã mở rộng danh sách các nước thuộc diện giám sát. Cụ thể, Mỹ hạ tiêu chí thặng dư cán cân thanh toán >2% GDP (thay vì 3% như trước đây) và tiêu chí mua ròng ngoại tệ trong ít nhất 6/12 tháng (thay vì 8/12 tháng như trước đây).
Ngoại trừ Trung Quốc chỉ chạm 1 tiêu chí, Việt Nam và 7 nước còn lại đều chạm 2 tiêu chí về thặng dư cán cân thương mại và cán cân thanh toán hiện thời. Tuy nhiên, khả năng Việt Nam bị Mỹ gắn mác thao túng tiền tệ trong lần rà soát tới là rất thấp do nguồn cung USD trong nước không còn dồi dào như trước dẫn đến khó có thể liên tục mua vào USD cho dự trữ ngoại hối. Thị trường tài chính tiền tệ vì vậy sẽ không bị tác động bởi câu chuyện thao túng tiền tệ, ít nhất là trong năm nay.
Lãi suất ổn định trên thị trường 1 và giảm trên thị trường 2. Trong tháng 5, tín phiếu vẫn là kênh hoạt động chính với 203 nghìn tỷ phát hành kỳ hạn 7 ngày với lãi suất 3%/năm và 180 nghìn tỷ đáo hạn. Kênh OMO chỉ có 613 tỷ phát hành và 821 tỷ đến hạn. Tính chung lại, NHNN đã hút ròng 35,1 nghìn tỷ trong cả tháng 5. Tuy nhiên, thanh khoản dồi dào trên liên ngân hàng khiến cho lãi suất liên ngân hàng giảm dần, lãi suất kỳ hạn qua đêm giảm từ mức 3,6%/năm vào đầu tháng xuống 2,87% vào ngày 30/5/2019 - mức thấp nhất kể từ tháng 10/2018 đến nay. Chênh lệch lãi suất VND-USD hiện đã xuống tương đối thấp, 0,6%/năm với kỳ hạn qua đêm.
Trong bối cảnh áp lực tỷ giá từ diễn biến quốc tế đang gia tăng, việc duy trì ổn định lãi suất trên liên ngân hàng để đảm bảo chênh lệch lãi suất VND-USD thực dương sẽ là yếu tố quan trọng để bình ổn thị trường ngoại hối. Báo cáo nhận định, nhiều khả năng lãi suất VND trên LNH sẽ được giữ trong vùng 3,3-3,5%/năm để đảm bảo lớn hơn lãi suất USD khoảng 0,8-1%/năm.
Đối với thị trường 1, lãi suất huy động vẫn khá ổn định ở mức 4,1%-5,5% với kỳ hạn dưới 6 tháng; 5,5-7,45% với kỳ hạn 6 đến dưới 12 tháng. Tuy nhiên, kỳ hạn 12,13 tháng ghi nhận sự điều chỉnh trái chiều ở các ngân hàng, có một số ngân hàng lớn điều chỉnh giảm từ 30-40bps nhưng cũng có ngân hàng điều chỉnh tăng thêm 20-30bps. Mức lãi suất hiện tại khác biệt khá nhiều giữa các ngân hàng, dao động trong vùng 6,4%-7,8%/năm.
“Chúng tôi vẫn giữ quan điểm lãi suất huy động ổn định ở mức hiện tại vì các NHTM cần đảm bảo đủ nguồn để thực hiện mục tiêu tăng trưởng tín dụng trong bối cảnh phải cạnh tranh với các kênh đầu từ khác đang phát triển nhanh (trái phiếu, chứng chỉ quỹ…) và nhu cầu gia tăng số dư huy động để đáp ứng lộ trình tiếp tục giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn từ 40% hiện nay xuống 30%. Việc đẩy mạnh cho vay khách hàng cá nhân với lãi suất tốt hơn sẽ là cơ sở để các NHTM có thể duy trì được mặt bằng lãi suất huy động hiện tại mà không ảnh hưởng nhiều đến lợi nhuận”, báo cáo nhận định.
Đối với lãi suất cho vay, mặc dù lãi suất huy động bắt đầu tăng và thiết lập mặt bằng mới gần 6 tháng nay nhưng lãi suất cho vay với sản xuất kinh doanh vẫn tương đối ổn định, chưa kể còn có một số gói vay ưu đãi với một số ngành nghề nhất định ở các ngân hàng lớn. Kế hoạch lợi nhuận 2019 của 17 ngân hàng niêm yết chỉ tăng 18% so với 2018, thấp hơn nhiều mức tăng 31% của năm 2018 trong khi số ngân hàng đã đạt hoặc đặt mục tiêu chuẩn Basel II tăng lên cho thấy các NHTM đã chú trọng nhiều hơn đến tính bền vững thay vì chạy theo tăng trưởng ngắn hạn. Việc mở rộng nguồn thu, thay đổi cấu trúc khách hàng, quản lý chi phí hiệu quả… sẽ được ưu tiên lựa chọn thay vì tăng lãi suất cho vay.
Trên thị trường trái phiếu Chính phủ (TPCP), lợi tức giảm trên cả sơ cấp và thứ cấp. Trong tháng 5, KBNN gọi thầu tổng cộng 17 nghìn tỷ đồng, giảm 8% so với tháng trước. Tính chung 02 tháng đầu quý II/2019, KBNN chỉ gọi thầu 35.5 nghìn tỷ đồng, giảm 23% so với cùng kỳ 2018 và chỉ bằng 40% lượng gọi thầu của quý I/2019. Có 11.936 tỷ đồng TPCP được phát hành (-5% MoM) trong tháng 5, tỷ lệ trúng thầu trên tổng lượng gọi thầu là 70%.
Lãi suất trúng thầu kỳ hạn 5 năm giữ nguyên ở mức 3,7%/năm và kỳ hạn 30 năm tăng 3bps lên 5,88%/năm nhưng lượng trúng thầu 2 kỳ hạn này không nhiều. 89% TPCP phát hành trong tháng là ở các kỳ hạn từ 10, 15 và 20 năm với lãi suất trúng thầu giảm 1-3bps, hiện ở mức 4,69%; 5,04% và 5,68%/năm.
Như vậy, trong 5 tháng đầu năm 2019, có tổng cộng 93.981 tỷ đồng TPCP được phát hành, tăng 63% YoY và đạt 36% kế hoạch năm 2019. Lượng TPCP đáo hạn trong 5 tháng đầu 2019 lên tới 81,7 nghìn tỷ đồng, cao gấp 3 lần cùng kỳ năm 2018 nên lượng phát hành ròng chỉ là 12,3 nghỉn tỷ đồng, giảm 60% YoY.
Mặc dù 2 kỳ hạn 10 và 15 năm vẫn chiếm chủ yếu nhưng tháng 5/2019 có 3.500 tỷ đồng TPCP kỳ hạn 20, 30 năm được phát hành. Đây là mức cao nhất theo tháng trong vòng 1 năm trở lại đây. Kỳ hạn trúng thầu bình quân 5 tháng đầu năm là 12,7 năm, của riêng tháng 5 là 15,6 năm. TPCP kỳ hạn trên 15 năm thường là tài sản đầu tư ưa thích của các công ty bảo hiểm và các quỹ đầu tư.
Lợi tức trên thị trường thứ cấp diễn biến cùng chiều với thị trường sơ cấp khi giảm từ 1-6bps ở tất cả các kỳ hạn trong đó mạnh nhất là ở kỷ hạn 5 năm. Hiện lợi tức các kỳ hạn 3 năm, 5 năm, 10 năm và 15 năm lần lượt ở mức 3,14%; 3,55%; 3,8%; 4,7% và 5,05%/năm.
Tổng giá trị giao dịch tháng 5/2019 là 176.3 nghìn tỷ đồng, tương đương với tháng trước nhưng giá trị giao dịch bình quân là 8.014 tỷ đồng/phiên, thấp hơn 9% so với các phiên giao dịch trong tháng 4. Trong đó, khối ngoại có tháng thứ 7 mua ròng liên tiếp với giá trị mua tròng trong tháng 5 là 1.236 tỷ đồng, tăng mạnh so với 48 tỷ đồng của tháng 4/2019. Nếu như tổng giá trị mua ròng cả năm 2018 chỉ là 207 tỷ đồng thì trong 5 tháng đầu năm 2019, NĐTNN đã mua ròng lên tới 7.836 tỷ đồng TPCP.
Trên thị trường chứng khoán, thị trường tháng 5 điều chỉnh do chịu nhiều áp lực từ rủi ro bên ngoài như: Căng thẳng thương mại leo thang, ảnh hưởng tới vận động của TTCK toàn cầu; Khối ngoại bán ròng kênh khớp lệnh sau 4 tháng mua ròng liên tiếp; Giao dịch tái cơ cấu của các quỹ ETF tạo ra tâm lý giao dịch thận trọng của giới đầu tư.
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận