Ban hành nghị định về thanh toán không dùng tiền mặt là bất hợp lý
Việc tiếp tục ban hành quy định về thanh toán không dùng tiền mặt dưới hình thức Nghị định là không hợp lý.
Ban hành nghị định chỉ nên là biện pháp tạm thời
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang xây dựng dự thảo nghị định quy định về thanh toán không dùng tiền mặt (gọi tắt là dự thảo) và lấy ý kiến của các đối tượng chịu tác động.
Việc ban hành quy định về thanh toán không dùng tiền mặt dưới hình thức nghị định chỉ nên coi là giải pháp tạm thời bởi 3 lý do.
Thứ nhất, việc hạn chế thanh toán bằng tiền mặt, gồm cả việc hạn chế sử dụng ngoại hối, tức là hạn chế quyền của công dân, thì phải được quy định cụ thể trong luật.
Hai là vấn đề trên liên quan trực tiếp đến nước ngoài, do đó văn bản dưới luật không bảo đảm cơ sở pháp lý cần thiết.
Ba là nếu giao dịch dân sự vi phạm các điều cấm trong pháp lệnh và nghị định thì sẽ không bị vô hiệu như trước đây. Hiện nay giao dịch dân sự chỉ vi phạm điều cấm của luật thì mới bị vô hiệu theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 117 về “Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự”.
Cần khẩn trương xây dựng Luật Thanh toán cùng với Luật Ngoại hối, vì đây là những vấn đề đặc biệt quan trọng (nhất là liên quan đến ngoại hối và thanh toán quốc tế).
Cụm từ “Tiền di động” (Điều 3 của dự thảo) là một khái niệm không rõ ràng, dễ gây nhầm lẫn với tính chất quan trọng nhất của tiền tệ là tính lưu thông (hay lưu động, di động) trong khi pháp luật hoàn toàn không có khái niệm tương ứng là “Tiền cố định”.
Vì thế, tôi đề nghị cơ quan soạn thảo cần sửa lại khái niệm này, chẳng hạn như “tiền điện tử trên thuê bao di động” hay “tiền trên thuê bao di động”.
Về cấm hành vi “cho mượn tài khoản thanh toán” (Điều 8 của Dự thảo), việc dự thảo có tới 16 nhóm hành vi bị cấm mà hầu như chưa được quy định trong luật, là không bảo đảm cơ sở pháp lý (như phân tích ở trên).
Khoản 5 tiếp tục quy định một số hành vi bị cấm, trong đó có “cho mượn tài khoản thanh toán” là không cần thiết.
Việc mượn tài khoản để nhờ chuyền tiền, rút tiền, trả nợ, thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ thông thường là điều hết sức bình thường, nếu như tuân thủ đúng các quy định liên quan. Việc chủ tài khoản hay người khác sử dụng tài khoản để thực hiện hoạt động trái pháp luật thì đương nhiên là phạm pháp và đã bị cấm theo quy định tại khoản 9 của điều này. Đề nghị bỏ quy định trên, hoặc ít nhất là cần sửa đổi theo hướng cấm cho mượn tài khoản thanh toán để sử dụng vào mục đích bất hợp pháp.
Cần hết sức thận trọng về việc phong tỏa tài khoản thanh toán gian lận, vi phạm pháp luật
Về việc phong tỏa “tài khoản thanh toán gian lận, vi phạm pháp luật” (Điều 11 của dự thảo), đây cũng chính là một trường hợp trước đây đã từng được quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 12 về “Tạm khóa và phong tỏa tài khoản thanh toán”, Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22-11-2012 của Chính phủ về “Thanh toán không dùng tiền mặt”.
Tuy nhiên quy định này đã bị bãi bỏ theo quy định tại khoản 6, Điều 1 của Nghị định số 80/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2012/NĐ-CP.
Cơ quan soạn thảo phải “hết sức thận trọng khi quy định điều này để tránh tình trạng bị lợi dụng gây rủi ro rất lớn cho các bên liên quan”.
Lấy một ví dụ: bên thanh toán đã chuyển tiền thành công, bên bán hàng hoàn toàn tin tưởng giao hàng, nhưng sau đó bất cứ khi nào cũng có thể bị phong tỏa tài khoản và không nhận được tiền.
“Ở trường hợp này, quy định như dự thảo có điểm tốt là hỗ trợ khách hàng chuyển tiền nhầm lẫn (không phải lỗi của ngân hàng), khó khăn, thậm chí không thu hồi được tiền đã xảy ra trên thực tế. Tuy nhiên, quy định này chỉ hợp lý trong trường hợp ngăn chặn tội phạm thực sự hoặc cùng lắm là khi đã thực hiện lệnh chuyển khoản nhưng tiền vẫn chưa chuyển sang tài khoản của ngân hàng khác. Vì vậy cần bỏ quy định này hoặc diễn giải một cách cụ thể, để có thể bảo vệ được bên này nhưng đồng thời tránh gây rủi ro cho bên kia”.
Bên cạnh đó, về nguyên tắc, việc rủi ro khi chuyển khoản nhầm lẫn đã có quy định khác của pháp luật xử lý, ví dụ như các quy định của pháp luật dân sự, hành chính và hình sự.
Cụ thể, việc chủ tài khoản nhận được tiền do người khác chuyển đến nhầm là hành vi “chiếm hữu không có căn cứ pháp luật” theo quy định tại khoản 2, Điều 165 về “Chiếm hữu có căn cứ pháp luật” và người chuyển nhầm “có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật” theo quy định tại khoản 1 Điều 166 về “Quyền đòi lại tài sản”, Bộ luật Dân sự năm 2015.
Thứ hai, chủ tài khoản nhận được tiền do người khác chuyển đến nhầm mà không trả lại thì sẽ bị phạt tiền từ 2 – 5 triệu đồng về hành vi “Chiếm giữ trái phép tài sản của người khác”, theo quy định tại điểm e, khoản 2, Điều 15 về “Vi phạm quy định về gây thiệt hại đến tài sản của người khác”, 167/2013/NĐ-CP ngày 12-11-2013 của Chính phủ.
Thứ ba, chủ tài khoản nhận được tiền trong trường hợp trên mà cố tình không trả lại đối với số tiền từ 10 triệu đồng trở lên thì có thể bị truy tố theo Điều 176 về “Tội chiếm giữ trái phép tài sản”, Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, với mức hình phạt tiền từ 10 – 50 triệu, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm.
Đối với quy định về việc “Giải quyết tranh chấp” (Điều 33 của dự thảo), ông Đức cho rằng quy định này là thừa, vì không có nội dung gì cụ thể khác với nguyên tắc chung về phương thức giải quyết tranh chấp.
Không những thế, quy định tranh chấp ‘được giải quyết bằng thoả thuận’ sẽ còn dễ bị hiểu sai là khi xảy ra tranh chấp, buộc phải giải quyết bằng thỏa thuận rồi mới dược đưa ra giải quyết theo quy định của pháp luật. Mà pháp luật thì lại quy định tranh chấp được giải quyết bằng các phương thức thương lượng, hòa giải, tòa án hoặc trọng tài.
Theo dõi người đăng bài
Tiếp cận các chuyên gia VIP/PRO hàng đầu của 24HMONEY
Nhận ngay bài viết tài chính chuyên sâu
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận