4 thay đổi lớn đang diễn ra trên nền kinh tế toàn cầu
Theo tờ Financial Times (FT), hiện nay có 4 sự thay đổi lớn đang diễn ra trong nền kinh tế thế giới.
Tại hội nghị Jackson Hole tuần trước, các quan chức ngân hàng trung ương (NHTW) khẳng định rõ ràng rằng lạm phát vẫn là mối đe dọa và rất khó để dự đoán hướng đi của lạm phát trong tương lai do các thay đổi mang tính cấu trúc trong nền kinh tế toàn cầu.
Thông thường, lập luận thứ hai rất dễ bị bác bỏ vì các quan chức luôn phàn nàn rằng thời kỳ nắm quyền của họ được đánh dấu bằng sự bất ổn bất thường. Tuy nhiên, vào năm 2023, họ có lý. Có năm sự thay đổi quan trọng đang diễn ra trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay.
Sức mạnh của người tiêu dùng Mỹ đã làm giới chuyên gia bất ngờ và có khả năng khiến lạm phát duy trì ở mức cao trong bối cảnh tỷ lệ thất nghiệp vẫn đang ở gần mức thấp nhất trong lịch sử. Fed chi nhánh Atlanta ước tính tốc độ tăng trưởng GDP quý III (số liệu chuẩn hóa theo năm) là 6%. Tuy nhiều, khả năng con số này không đúng, quả thực nền kinh tế Mỹ vẫn đang tăng trưởng quá nóng và cần hạ nhiệt. Hoạt động kinh doanh ở châu Âu đang khá ảm đạm. Giá cả và tiền lương vẫn đi lên nhanh chóng, làm dấy lên rủi ro về tình trạng lạm phát đình trệ kéo dài.
Cả hai nền kinh tế sẽ cần thời gian để đưa lạm phát xuống mức thấp và tạo ra một tốc độ tăng trưởng bền vững.
Để làm được điều này, các nhà hoạch định chính sách sẽ cần tăng lãi suất lên cao hơn, sau đó duy trì trong lâu hơn cho đến khi chắc chắn rằng áp lực lạm phát đã tiêu biến. Tuy nhiên, việc đánh giá chính xác thời điểm rủi ro lạm phát biến mất lại càng thêm phức tạp bởi sự thay đổi thứ hai trong nền kinh tế toàn cầu: Nguồn cung đang ngày càng bất ổn.
Đã qua lâu rồi cái thời mà các nhà hoạch định chính sách có thể hiểu được áp lực lạm phát chỉ bằng cách xây dựng các chỉ số nhu cầu tốt nhất hiện có và so sánh chúng với tốc độ tăng trưởng bền vững không đổi hàng năm. Đại dịch và cuộc khủng hoảng năng lượng trong ba năm qua đã khiến những phân tích như vậy trở nên dư thừa.
Các nhà kinh tế ngày nay phải phân tích những thay đổi cực đoan trong nguồn cung, dưới tác động của các đợt phong tỏa COVID-19, vết rạn nứt trong chuỗi cung ứng toàn cầu cho đến sự xáo trộn nguồn cung năng lượng bắt nguồn từ chiến sự Nga-Ukraine. Ngay cả trong thị trường lao động, các xu hướng cũng đã trở nên rất khó đánh giá.
Năm 2021, Mỹ chứng kiến tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nhóm dân số độ tuổi 15-64 (nhóm tuổi lý tưởng) sụt giảm, nhưng gần đây con số này đã phục hồi nhanh chóng. Pháp cũng chứng kiến sự cải thiện rõ rệt của nguồn cung lao động, nhưng không phải nước nào cũng may mắn như vậy. Dữ liệu cho thấy không ít người Anh vẫn ngần ngại hoặc không đủ khả năng quay lại thị trường lao động .
Ngân hàng Anh đang phải đối mặt với sự đánh đổi khó khăn nhất, phải giải quyết các vấn đề về nguồn cung, từ sự thiếu hụt đầu tư kinh doanh dai dẳng kể từ cuộc trưng cầu dân ý về Brexit năm 2016, tình trạng ốm đau dài hạn của nhân viên gia tăng mạnh và khủng hoảng năng lượng. Ngân hàng không thể khắc phục những vấn đề này bằng chính sách tiền tệ, nhưng cần đảm bảo nhu cầu được cắt giảm đủ để ép lạm phát mạnh hơn. Điều đó sẽ cần một chút can đảm.
Nếu BoE gặp vấn đề cấp bách nhất với nguồn cung hạn chế, thì sự thay đổi thứ ba liên quan đến tài chính công và được áp dụng mạnh mẽ nhất ở bên kia Đại Tây Dương. Nói một cách đơn giản, Fed phải giải quyết việc chính trị Mỹ không sẵn sàng thể hiện bất kỳ sự kiềm chế nào đối với ngân sách của mình.
10 tháng sau năm tài chính gần nhất, Văn phòng Ngân sách Quốc hội tính toán rằng thâm hụt ngân sách liên bang cao hơn gấp đôi so với cùng kỳ năm trước. Các khoản thu bằng tiền mặt giảm 10%, trong khi tổng sản phẩm quốc nội danh nghĩa cao hơn khoảng 7% so với năm tài chính trước.
So với một thập kỷ trước, nền kinh tế Mỹ đã chuyển từ chế độ tài khóa tương đối chặt chẽ và tiền tệ lỏng lẻo sang chính sách tài khóa lỏng lẻo và tiền tệ chặt chẽ. Các quốc gia châu Âu phải đối mặt với những thách thức về quốc phòng, nhân khẩu học và khí hậu giống nhau, khiến cho sự thay đổi tương tự có khả năng lan rộng.
Nhìn xa hơn, sự thay đổi thứ ba là triển vọng kinh tế của Ấn Độ. Trong suốt nhiều năm, nền kinh tế thế giới đã phụ thuộc vào diễn biến của nền kinh tế Trung Quốc bởi nước này sản xuất nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Trung Quốc từng tăng trưởng với tốc độ khoảng 8% một năm.
Giai đoạn đó đang dần kết thúc. Nếu đo lường theo tỷ giá hối đoái ngang bằng sức mua, quy mô của nền kinh tế Trung Quốc vẫn lớn hơn gấp đôi so với Ấn Độ. Tuy nhiên, tăng trưởng của Trung Quốc đang chậm lại nhanh chóng. Theo tờ FT, Ấn Độ đã vượt qua Trung Quốc về dân số và sẽ sớm qua mặt người hàng xóm cả về mức đóng góp cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Điều này có thể xảy ra ngay trong nửa sau năm 2023 và nhiều khả năng sẽ thành điều bình thường vào thập niên 2030.
Việc Ấn Độ vượt Trung Quốc về tỷ lệ đóng góp cho tăng trưởng toàn cầu nêu bật sự thay đổi thứ tư của nền kinh tế thế giới. Ấn Độ là ngoại lệ trên trường quốc tế với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng. Ở phần còn lại của thế giới, tăng trưởng năng suất đã giảm tốc, các quốc gia dựng hàng rào thương mại và ưu tiên cho sự bền bỉ thay vì hiệu quả. Trong môi trường này, tốc độ tăng trưởng của thế giới sẽ chậm lại.
Trước khủng hoảng tài chính 2008, nền kinh tế toàn cầu có thể tăng trưởng đều đặn khoảng 4%/năm. Con số đó giảm còn 3,5% trong thập niên 2010. Giờ đây 3% có vẻ là giới hạn cao nhất. Việc mức sống của người dân không còn được cải thiện nhanh như trước có thể sẽ giúp làm giảm lượng khí thải carbon, nhưng điều này chắc chắn sẽ không giúp ích cho nỗ lực giải quyết căng thẳng địa chính trị.
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận