Theo số liệu từ Tổng cục thống kê, lạm phát tại nhiều nước trong tháng 5 đạt mức kỷ lục. Các nước khu vực đồng Euro, chỉ số lạm phát tăng 8,1%. Tại châu Á, lạm phát của Thái Lan tăng 7,1%, Hàn Quốc tăng 5,4%. Đặc biệt, lạm phát tại Mỹ tính đến tháng 7 tăng cao chưa từng có là 9,1%. Với nỗ lực kiềm chế lạm phát, Fed đã 2 lần tăng lãi suất với tổng mức tăng là 1,5% và sẽ dự kiến còn tăng từ nay đến cuối năm. Trước tình hình đó, Việt Nam được đánh giá là tăng trưởng tốt với mức lạm phát bình quân 6 tháng đầu năm trong tầm kiểm soát và 2,44%. Nhiều ý kiến băn khoăn liệu sức ép lạm phát và lãi suất còn gia tăng trong thời gian tới?
Tại chương trình Phố Tài Chính bà Nguyễn Thị Hằng Nga, Phó Tổng giám đốc CTQL Quỹ Vietcombank (VCBF) cho biết lạm phát đã duy trì ở mức cao trong thời gian khá dài, điều này khiến các nhu cầu có dấu hiệu giảm xuống. Gần đây, nhà đầu tư lo ngại về khả năng xảy ra khủng hoảng. Bloomberg Commodity Index – chỉ số phản ánh giá khoảng 20 hàng hóa cơ bản nhất đã giảm khoảng 15% từ giữa tháng 6 đến nay so với mức đỉnh. Cùng với đó, giá xăng dầu ở Mỹ cũng giảm khoảng 10%. Kết hợp các yếu tố này, lạm phát có thể đã bắt đầu lập đỉnh và có thể giảm từ tháng 7. Tuy nhiên cũng cần phải cẩn trọng về giá xăng dầu do còn phục thuộc nhiều vào ảnh hưởng từ căng thẳng giữa Nga và Ukraine, mùa đông sắp tới sẽ là một câu hỏi rất lớn cho giá xăng dầu.
Ông Võ Đình Trí, Giảng viên Trường IPAG Business School Paris, Pháp cho biết từ giữa tháng 5 trở đi, giá các mặt hàng năng lượng đã bắt đầu có xu hướng giảm. Nhiều nhà phân tích không cho rằng giá dầu còn tăng cao hơn nữa do ở mức giá này, nhiều công ty sản xuất dầu khai thác đã có biên lợi nhuận khá tốt. Cùng với đó là lo ngại suy thoái kinh tế sẽ xảy ra khiến nhu cầu dầu trên thế giới giảm xuống.
Trước những lo ngại như trên, nhiều nhà đầu tư chứng khoán đã bị thua lỗ dưới đà giảm của thị trường. Theo ông Trí, gần đây nhiều đơn vị đã nhận định rủi ro suy thoái tăng đặc biệt là ở Mỹ. Tuy nhiên, điều này cũng mới chỉ dừng ở rủi ro cao. Tăng trưởng có chậm lại, vấn đề lạm phát tăng nhưng việc làm tốt. Điều này có nghĩa nhiều nhóm ngành hay lĩnh vực vẫn cần nhiều lao động.
Bà Nga đánh giá việc thị trường chứng khoán đi xuống trong thời gian vừa qua không chỉ là phản ứng với lạm phát mà còn là sự điều chỉnh của nhiều cổ phiếu trước đó đã có mức tăng phi lý (năm 2020, 2021). Đến nay, khi dòng tiền rẻ không còn nữa, nhà đầu tư cá nhân bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tốt tâm lý và khiến các cổ phiếu nói trên giảm mạnh, kéo chỉ số đi xuống.
Bên cạnh những nhà đầu tư thua lỗ vẫn còn những nhà đầu tư hay các tổ chức chuyên nghiệp đã vượt qua sóng gió. Một số quỹ lớn nắm giữ cổ phiếu đã chiến thắng so với đà giảm chung của thị trường. Có thể thấy, với các chiến lược đầu tư hiệu quả nhà đầu tư vẫn có thể “sống khỏe” trong thời điểm thị trường biến động.
Theo ông Trí, có những quỹ đầu tư hoặt động hiệu quả khi sử dụng các chiến lược phòng hộ tốt hoặc đôi khi là chiến lược “short” thị trường.
Về triển vọng thị trường thời gian tới, ông Trí đánh giá việc Fed từ nay đến cuối năm sẽ hoàn thành việc tăng lãi suất khoảng 3 – 4% để kiểm soát lạm phát. Bên cạnh đó, rủi ro về suy thoái dù cao nhưng sẽ không xảy ra. Lúc này, trợ lực quan trọng của nền kinh tế là hệ thống ngân hàng được cho rằng sẽ có một giai đoạn “hạ cánh mềm”. Còn đối với Việt Nam, các vấn đề về vĩ mô vẫn ổn định hơn đặc biệt là kiểm soát lạm phát cũng như thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, rủi ro là sang đến năm 2023 Việt Nam mới bị độ trễ so với các nước khác.
Bà Nga đưa ra nhận xét về việc chỉ số P/E của VN-Index đang ở 12,7 – 12,8 lần. Nếu so với lịch sử, mức thấp hơn chỉ xảy ra 4 lần và mỗi lần này đều diễn ra ngắn khoảng 2 – 3 quý. Bà Nga đánh giá đây là mức định giá tốt để nhà đầu tư tham gia thị trường. Tuy nhiên nhà đầu tư vẫn phải lựa chọn những cổ phiếu tốt.
Câu hỏi đặt là hiện nay là nhà đầu tư liệu có thể thực hiện các chiến lược đầu tư như quỹ để phòng ngừa rủi ro trong bối cảnh lạm phát và lãi suất tăng. Ông Trí cho biết nhà đầu tư có kinh nghiệp sẽ lựa chọn các tài sản trú ẩn như trái phiếu hay gửi tiết kiệm. Trong khi đó, vẫn có những cổ phiếu tạo ra dòng thu nhập tốt như các doanh nghiệp trả cổ tức tốt. Những doanh nghiệp có tỷ lệ sử dụng vốn hiệu quả và tiếp tục đầu tư thì được cho là doanh nghiệp có nội tại tốt. Khi nhà đầu tư đa dạng các chiến lược khác nhau hoặc có thể bỏ vốn vào các quỹ có chiến lược đầu tư khác nhau để phòng ngừa rủi ro.
Theo bà Nga, các quỹ cũng có nhiêu cách phân loại khác nhau, trong đó, phân loại được sử dụng nhiều là dựa vào loại tài sản đầu tư vào gồm quỹ cổ phiếu, quỹ trái phiếu hay quỹ hồn hợp (quỹ cân bằng). Nhà đầu tư cần xem xét chiến lược đầu tư của quỹ là gì, so sánh hiệu quả đầu. Cùng với đó nhà đầu tư cần xem xét khả năng chịu rủi ro.
Chia sẻ thông tin hữu ích