Điện sản xuất và nhập khẩu quý I tăng 4,1%
Lũy kế 3 tháng đầu năm, sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống đạt 59,65 tỷ kWh, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm 2020.
Trong đó, thủy điện huy động 13,86 tỷ kWh, tăng 55,4% so với cùng kỳ năm 2020; nhiệt điện khí huy động 7,44 tỷ kWh, giảm 21,4% so với cùng kỳ năm 2020; nhiệt điện than huy động 29,75 tỷ kWh, giảm 12,4 % so với cùng kỳ năm 2020; năng lượng tái tạo huy động 7,79 tỷ kWh, tăng 180,6% so với cùng kỳ năm 2020 (riêng điện mặt trời huy động 7,13 tỷ kWh) và điện nhập khẩu 405 triệu kWh, giảm 58% so với cùng kỳ năm 2020.
Điều đang nói là dù tăng trưởng sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống trong quý I/2021 chỉ có 4,1% và sản lượng điện thương phẩm toàn EVN trong quý I ước đạt 50,81 tỷ kWh, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước nhưng EVN đã đảm bảo cung cấp điện an toàn, ổn định, đáp ứng nhu cầu điện cho sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của nhân dân tại các địa phương, đặc biệt đảm bảo tăng cường cấp điện cho các bệnh viện, cơ sở y tế và các khu vực cách ly tập trung phục vụ công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19.
Trước đó, cả năm 2020, sản lượng điện cả nước chỉ tăng 2,45%.
Trong quý I/2021, EVN cũng gặp một số khó khăn trong huy động nguồn linh hoạt, đó là các tổ máy thủy điện phải thay đổi linh hoạt công suất để bù đắp thay đổi năng lượng tái tạo, ảnh hưởng đến an ninh cấp điện cuối mùa khô; tăng số lần khởi động/thay đổi công suất các tổ máy nhiệt điện than/tuabin khí, làm tăng nguy cơ sự cố tổ máy...
Do đó, việc huy động các nguồn điện hàng ngày cần được tính toán hợp lý, cơ cấu nguồn phải đảm bảo có dự phòng để đáp ứng không những các thay đổi của phụ tải tiêu thụ điện mà còn với các thay đổi bất thường của chính các nguồn năng lượng tái tạo với mức độ thay đổi hàng nghìn MW trong vài giây. Việc tiết giảm khả năng phát các nguồn năng lượng tái tạo trong thời gian qua cũng như hiện nay là bắt buộc phải thực hiện để đảm bảo an toàn cung cấp điện.
Song nhìn chung, trong 3 tháng đầu năm, công tác điều hành cung ứng điện đã bám sát nhu cầu nhu cầu điện cả nước và tại các khu vực, đảm bảo huy động các loại nguồn điện phù hợp với tình hình thuỷ văn, đồng thời đảm bảo cấp nước hạ du và sản xuất nông nghiệp.
EVN đã phối hợp với Tổng cục Thuỷ lợi tiến hành 3 đợt xả nước, cung cấp đủ nước phục vụ gieo cấy vụ Đông Xuân 2020 - 2021 cho các tỉnh Trung du và Đồng bằng Bắc Bộ. Tính chung cả 3 đợt xả nước, các hồ thủy điện của EVN đã xả 5,14 tỷ m3 (hồ Hòa Bình: 3,399 tỷ m3, hồ Tuyên Quang: 1,059 tỷ m3, hồ Thác Bà: 0,682 tỷ m3).
So với kế hoạch ban đầu, tổng lượng nước xả tiết kiệm được khoảng 0,5 - 0,7 tỷ m3. Tổng lượng nước xả năm nay dù đã giảm so với kế hoạch, nhưng vẫn cao hơn 2,46 tỷ m3 so với năm 2020 (năm có mưa lớn vào Tết Nguyên đán); cao hơn 0,72 tỷ m3 so với năm 2019.
Cũng từ năm 2020, EVN đã triển khai thí điểm việc tích hợp các hệ thống kỹ thuật và kinh doanh nhằm giảm số thủ tục và rút ngắn thời gian giải quyết các yêu cầu cấp điện mới. Ngoài ra, trong 3 tháng đầu năm 2021, chỉ số SAIDI (thời gian mất điện kéo dài trung bình của khách hàng) là 262,7 phút, giảm 43,9%% so với cùng kỳ năm 2020; chỉ số SAIFI (tần suất mất điện kéo dài trung bình) là 2,02 lần, giảm 28,87% so cùng kỳ năm 2020.
Tỷ lệ khách hàng thanh toán tiền điện không dùng tiền mặt đạt 67,52%. Tỷ lệ số tiền điện được thanh toán không dùng tiền mặt toàn EVN đạt gần 90%.
Bạn muốn trở thành VIP/PRO trên 24HMONEY?
Liên hệ 24HMONEY ngay
Bình luận